Ngày 13/5, Quốc hội nghe Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
Ông Mãi cho biết, dự thảo Luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý đã bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về đổi mới, cơ cấu lại và phát triển doanh nghiệp có vốn nhà nước; kịp thời thể chế hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 18-NQ/TW, Kết luận số 127-KL/TW và thể hiện trong các điều, khoản của dự thảo Luật.
UBTVQH đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty tại doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ; người đại diện phần vốn nhà nước; người đại diện phần vốn của doanh nghiệp. Cắt giảm 7/24 (khoảng 30%) thủ tục hành chính; khoảng 50% số thủ tục trình lên Thủ tướng Chính phủ được cắt giảm hoặc phân cấp cho cơ quan đại diện chủ sở hữu, tăng cường phân cấp cho doanh nghiệp.
Dự thảo Luật đã được rà soát, nghiên cứu kỹ lưỡng, tiếp thu tối đa ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH). Sau khi tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Luật gồm có 8 Chương, 59 Điều, giảm 3 Điều so với dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8.
Cụ thể, về đối tượng áp dụng: Một số ý kiến đề nghị nghiên cứu, quy định đối tượng áp dụng bao gồm doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp từ dưới 50% vốn điều lệ. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo rà soát, bổ sung quy định để quản lý doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp từ dưới 50% vốn điều lệ là “Người đại diện phần vốn nhà nước đầu tư tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên”.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật đã chỉnh lý, hoàn thiện quy định về người đại diện phần vốn nhà nước tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, bảo đảm bao quát cả việc quản lý và đầu tư vốn nhà nước theo phần vốn đầu tư tại doanh nghiệp có từ 50% vốn nhà nước trở xuống theo nguyên tắc ở đâu có vốn của nhà nước thì ở đó phải có quản lý của Nhà nước với biện pháp với mức độ phù hợp.
Về phạm vi đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Nhiều ý kiến đề nghị tiếp tục rà soát, bảo đảm đúng tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 12-NQ/TW, chỉ tập trung đầu tư vốn vào một số DNNN hoạt động trong lĩnh vực then chốt, thiết yếu hoặc lĩnh vực mà các doanh nghiệp khác không đầu tư.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng và tiếp thu ý kiến ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo rà soát, quy định phạm vi đầu tư vốn của nhà nước vào doanh nghiệp là những lĩnh vực mà nhà nước cần đầu tư vốn để thành lập doanh nghiệp và đầu tư bổ sung vốn nhà nước, gồm: doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội; doanh nghiệp trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp hoạt động tại những địa bàn trọng yếu về quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền tự nhiên; doanh nghiệp phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia; ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, tạo động lực phát triển nhanh cho các ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế; doanh nghiệp thuộc lĩnh vực then chốt, thiết yếu của nền kinh tế.
Về huy động vốn, cho vay vốn: Một số ý kiến đề nghị rà soát, chỉnh lý quy định về huy động vốn của doanh nghiệp theo hướng vừa tăng sự chủ động của doanh nghiệp, có cơ chế quản lý, giám sát chặt chẽ; giao doanh nghiệp được bảo lãnh hoặc cho công ty con vay vốn và giao Chính phủ quy định chi tiết các điều kiện được bảo lãnh, cho vay vốn.
UBTVQH tiếp thu ý kiến ĐBQH và chỉnh lý tại Điều 18 dự thảo Luật. Quy định này đã thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp do doanh nghiệp thành lập hoặc đầu tư vốn tiếp cận được nguồn vốn hợp lý, tạo nguồn lực để doanh nghiệp phát triển; chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
Về phân phối lợi nhuận sau thuế: Có ý kiến đề nghị quy định theo hướng sau khi đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước theo kế hoạch được cơ quan đại diện chủ sở hữu giao, phần lợi nhuận còn lại được sử dụng để xử lý các vấn đề phát sinh trước khi thực hiện trích lập Quỹ và nộp NSNN.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, để xử lý những vấn đề thực tiễn phát sinh trước khi thực hiện trích lập Quỹ và nộp NSNN, dự thảo Luật đã chỉnh lý theo hướng lợi nhuận sau thuế sau khi chia lãi cho các thành viên góp vốn theo hợp đồng hợp tác kinh doanh (nếu có); bù đắp lỗ của các năm trước đã hết thời hạn được trừ vào lợi nhuận trước thuế theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp; xử lý các chi phí theo quy định của luật chuyên ngành; xử lý chi phí đầu tư thất bại tại các dự án đầu tư có tính đặc thù, rủi ro cao nhưng không được quy định tại Luật chuyên ngành, chi phí đổi mới sáng tạo, dự án đổi mới thất bại, chi phí thực hiện nhiệm vụ chính trị do cấp có thẩm quyền giao theo quy định của Chính phủ. Phần còn lại được trích lập các quỹ và nộp NSNN.
Về giám sát, kiểm tra việc quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp: Một số ý kiến đề nghị rà soát, chỉnh lý quy định về công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan, bảo đảm phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định về giám sát, kiểm tra, thanh tra theo đúng tinh thần Kết luận số 134-KL/TW ngày 28/3/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về Đề án sắp xếp hệ thống cơ quan thanh tra tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả và thể hiện tại các điều, từ Điều 43 đến Điều 49 của dự thảo Luật.
Theo đó, dự thảo Luật chỉ quy định thẩm quyền thanh tra của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; không quy định thẩm quyền thanh tra đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước; việc thanh tra quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra và pháp luật có liên quan.