Không gian mạng - “màn ảnh mới” của điện ảnh Việt
Việc phổ biến phim trực tuyến mở ra cánh cửa đưa tác phẩm đến với hàng triệu khán giả, đồng thời góp phần quảng bá văn hóa và hình ảnh đất nước. Tuy nhiên, đi kèm với cơ hội là những thách thức không nhỏ về bản quyền, kiểm duyệt và chất lượng nghệ thuật, đòi hỏi giải pháp quản lý đồng bộ và sự chung tay của toàn ngành.

Cơ hội cho phim ảnh
Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số đang thay đổi căn bản cách khán giả tiếp cận điện ảnh. Việc xem phim trực tuyến nay đã trở thành thói quen phổ biến, đặc biệt trong giới trẻ. Chỉ với một thiết bị thông minh như điện thoại hay máy tính bảng, người xem ở bất cứ đâu. Từ thành phố lớn đến vùng sâu, vùng xa đều có thể thưởng thức những bộ phim mới nhất. Không gian mạng cũng mở rộng tầm ảnh hưởng của phim Việt, đưa hình ảnh văn hóa dân tộc đến gần hơn với cộng đồng người Việt ở khắp nơi trên thế giới.
Theo số liệu thống kê, Việt Nam hiện có khoảng 78 triệu người dùng Internet, trong đó 72 triệu người tham gia mạng xã hội. Đây là nền tảng quan trọng giúp nghệ thuật nói chung và điện ảnh nói riêng bùng nổ trên không gian trực tuyến, tạo nên bức tranh đa sắc và giàu tiềm năng. Công nghệ số, đặc biệt là Internet và các nền tảng mạng xã hội, đã trở thành “chất xúc tác” thúc đẩy sáng tạo, lan tỏa và tiêu thụ sản phẩm nghệ thuật nhanh hơn bao giờ hết.
Vài năm trở lại đây, điện ảnh Việt Nam đã chứng kiến bước chuyển mình sâu sắc trong sản xuất, phát hành và tương tác với khán giả. Sự phát triển của phim chiếu mạng cho thấy một xu hướng tất yếu, khi các nhà sản xuất tận dụng nền tảng trực tuyến để đưa sản phẩm đến gần công chúng hơn. Những dự án như “Thập tam muội” của Thu Trang Production hay “Vi Cá tiền truyện” phát hành trên YouTube đã thu hút hàng chục triệu lượt xem, chứng minh sức sống của mô hình phim trực tuyến.
Đặc biệt, trường hợp “Đào, phở và piano” (2024) là minh chứng rõ nét cho sức mạnh lan tỏa của mạng xã hội. Hiệu ứng truyền thông mạng đã giúp bộ phim Nhà nước đặt hàng này đạt doanh thu và sức lan tỏa hiếm có.
Không chỉ là kênh quảng bá, không gian mạng còn mở ra cơ hội cho lớp nghệ sĩ trẻ khẳng định cá tính sáng tạo. Nhiều nhà làm phim độc lập như Trần Dũng Thanh Huy (Ròm), Lê Bảo (Vị), Trần Lệ Diễm (Những đứa trẻ trong sương)... đã đưa phim Việt ra đấu trường quốc tế, giành nhiều giải thưởng danh giá.
Siết kiểm soát nội dung
Song song với cơ hội, phổ biến phim trên không gian mạng đang đối diện những thách thức không nhỏ. Nổi cộm nhất là tình trạng vi phạm bản quyền. Việc bảo vệ bản quyền gặp thách thức, trào lưu review tóm tắt phim tràn lan gần đây trên mạng xã hội tạo nên thiệt hại đối với nghệ sĩ và nhà sản xuất…
Bên cạnh đó, việc kiểm duyệt phim trực tuyến cũng đặt ra bài toán nan giải. Có những bộ phim có yếu tố nhạy cảm, xuyên tạc lịch sử, sai lệch chuẩn mực văn hóa có nguy cơ lọt lưới. Vụ việc mới đây liên quan đến bộ phim Trung Quốc "Hãy để tôi tỏa sáng" có hình ảnh "đường lưỡi bò" phi pháp là một hồi chuông cảnh báo. Bộ phim đã bị Cục Điện ảnh yêu cầu gỡ bỏ khẩn cấp. Đây không phải là lần đầu tiên vấn đề này xảy ra.
Theo ông Ngô Hương Giang - nhà nghiên cứu văn hóa và truyền thông, nhà phê bình điện ảnh (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), hoạt động quản lý cũng như kiểm duyệt phim nói chung và phim điện ảnh nói riêng trên không gian mạng của chúng ta đang có nhiều lỗ hổng, nhiều điều đáng phải lưu tâm cảnh báo. Những bộ phim chứa hình ảnh bản đồ vi phạm chủ quyền lãnh thổ phổ biến trên không gian mạng đã bị phát giác rất nhiều lần.
Vì vậy, ông Giang cho rằng, cần cập nhật khung pháp lý hiện hành để đảm bảo an ninh văn hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực điện ảnh và nội dung số. Trong đó, việc tiền kiểm cần được siết chặt hơn chứ không để phụ thuộc hoàn toàn vào cơ chế “tự kiểm duyệt”. Cùng với đó, thay vì trông đợi vào việc các nền tảng sẽ tự giác, Việt Nam cần có những công cụ công nghệ chủ động phát hiện và cảnh báo sớm nội dung vi phạm.
Còn theo nhà biên kịch Trịnh Thanh Nhã, với những phim được làm để phát hành trên không gian mạng, thì việc hậu kiểm là rất quan trọng. Theo hiểu biết thông thường thì không cơ quan chức năng nào có thể xem tất cả các phim trên mạng để kiểm soát nó, cũng như không thể thực hiện chế độ tiền kiểm vì số lượng quá nhiều. Nhưng hiện nay việc áp dụng công nghệ AI để kiểm soát nội dung trên mạng không phải là không thể làm. Cơ quan chức năng chịu trách nhiệm quản lý không gian mạng cần nhanh chóng thiết lập hệ thống quản lý này để AI có thể tự động loại trừ những nội dung độc hại cho xã hội.
Như vậy việc kiểm soát nội dung độc hại rất cần đến sự trợ giúp của AI. Mọi quốc gia tiên tiến đều phải làm việc này. Và do đó, khi việc kiểm soát đã vào khuôn khổ thì việc tự do sáng tạo sẽ không bị cản trở nữa.
“Trước hết Luật Bản quyền cần được coi trọng hơn nữa, với những chế tài đủ mạnh để ngăn chặn những vụ ăn cắp bản quyền, gây thiệt hãi lớn cho nhà sản xuất phim. Trong thực tế có khá nhiều trang Web lậu phát phim hoặc trích đoạn phim không có bản quyền. Và hơi buồn là nhiều khán giả Việt dường như đã quen với việc “sài đồ chùa” và coi đó là chuyện có lợi cho mình. Như vậy, một lần nữa tôi muốn nhắc đến vai trò của AI trong việc kiểm soát bản quyền trên mạng. Hệ thống kiểm soát không chỉ phải áp dụng chế tài với người phát hành lậu, mà còn cần có biện pháp với người dùng lậu nữa. Tôi nhận thấy khi bị phạt nặng, sự vi phạm sẽ giảm dần. Và đây cũng là cách để điều chỉnh một thứ tâm lý xuất phát từ lòng tham và sự gian manh đang lan tràn trong cộng đồng mạng” - bà Nhã nói.