Công tác kiểm kê di sản, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể (DSVHPVT) đã được Bộ VHTT&DL qui định và hướng dẫn cách đây 6 năm (tại Thông tư 04/2010/TT-BVHTTDL). Theo đó kiểm kê DSVHPVT là yêu cầu thường xuyên; kết quả kiểm kê di sản phải được cơ quan quản lý ngành dọc địa phương báo cáo hàng năm tới Bộ VHTT&DL.
Trong quá trình phát triển có những sự biến đổi của di sản có thể được chấp nhận.
Dẫu vậy, thực tế quản lý và kiểm kê di sản lâu nay cho thấy: Có những di sản mà cộng đồng chấp nhận sự biến đổi của nó trong dòng chảy thời cuộc, thì các cơ quan quản lý lại “gồng mình” để bảo tồn những di sản văn hóa phi vật thể khi nó không còn không gian diễn xướng.
TS Lê Thị Minh Lý - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa, người phụ trách công tác kiểm kê DSVHPVT của Hà Nội cho biết, việc kiểm kê di sản cũng như lập danh mục di sản cần ưu tiên bảo tồn nhằm hướng tới mục đích giúp cho chính quyền địa phương nhận diện tầm quan trọng của di sản, để cộng đồng chung tay ưu tiên bảo vệ di sản.
Chỉ đơn giản vậy, chứ không phải là việc công nhận một danh hiệu. Vậy mà lâu nay nhiều người vẫn lầm lẫn giữa chuyện đưa di sản vào danh mục cần bảo tồn với di sản đã xếp hạng. Thế nên từng có chuyện các địa phương tổ chức đón danh hiệu di sản thật rình rang.
Vậy cả nước có bao nhiêu kênh kiểm kê di sản từ trước tới nay? Về điều này GS.TSKH Tô Ngọc Thanh - Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian VN bày tỏ nhiều băn khoăn. Rằng cho tới thời điểm này, Hội đã hoàn thành tổng kiểm kê DSVHPVT của 48/54 dân tộc và văn bản hóa những di sản này bằng cả tiếng Việt, tiếng Anh để gửi tới UNESCO.
Hơn 30 năm qua Hội Văn nghệ dân gian VN đã miệt mài trong hoạt động kiểm kê DSVHPVT trên cả nước. Số tiền nhà nước đã cấp cho Hội để thực hiện công việc này không nhỏ: gần 300 tỉ đồng. Vì thế, nếu cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa không sử dụng kết quả kiểm kê của Hội âu cũng là một sự chồng chéo, lãng phí về thời gian và tiền bạc.
GS. TSKH Tô Ngọc Thanh cũng cho hay, từ năm 1990, UNESCO đã phát động “Thập niên gìn giữ bảo vệ có hiệu quả và dưới sự hiểu biết đầy đủ về di sản văn hóa phi vật thể”.
Do vậy, UNESCO đề ra tiêu chí: Phải kiểm kê đến nay để biết di sản còn cái gì, diễn ra làm sao? Trước đó vẫn còn thì nó ra sao, bây giờ hiện trạng của nó thế nào? Và những cái đã mất liệu có thể phục dựng được nó không? Muốn nghiên cứu những thứ này thì phải hỏi các nghệ nhân. Bởi nghệ nhân chính là những người thầy rất vĩ đại của văn nghệ dân gian.
Cho tới nay, kết quả kiểm kê DSVHPVT tại Hà Nội nói riêng và kết quả kiểm kê DSVHPVT từ các địa phương trên cả nước gửi về Cục Di sản Văn hóa cho thấy: Nguy cơ mai một nghệ thuật trình diễn dân gian là có thật; đồng thời đây cũng đang là thách thức lớn nhất trong công cuộc bảo tồn di sản hiện nay.
Có một mâu thuẫn khác là trong khi DSVHPVT ngày càng bị thu hẹp không gian diễn xướng, cộng đồng đã chấp nhận và sáng tạo sự biến đổi của nó sang không gian biểu diễn trên sân khấu thì các nhà quản lý lại thấy nó chưa đáp ứng được yếu tố gìn giữ sự nguyên bản của di sản.
Đơn cử như ý kiến của PGS. TS Đặng Hoành Loan cho rằng, việc mang Ví, Giặm lên sân khấu biểu diễn là chuyện bình thường và là xu hướng tất yếu. Cái mốc đánh dấu rõ nhất là từ những năm 1930, người ta đã mang dân ca Ví, Giặm lên sân khấu biểu diễn.
Sở dĩ loại hình này vẫn còn được lưu giữ vẹn nguyên cho tới hôm nay, cũng bởi trong quá trình lịch sử, Ví, Giặm hát phường vải đã tự giải phóng mình khỏi môi trường truyền thống. Hay bàn về việc biểu diễn hầu đồng trên sân khấu hiện nay, GS Ngô Đức Thịnh phân tích rằng: Trong bảo tồn văn hóa, hiệu quả là quan trọng nhất. Những chốn linh thiêng, không gian thực hành văn hóa của hầu đồng không phải lựa chọn của số đông nên việc diễn xướng hầu đồng ở những nơi được công chúng và đặc biệt là người trẻ hay tới cũng là một phương pháp không tồi để người trẻ có thể tiếp cận với loại hình sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng đặc biệt này.
Nhìn rộng ra trong bảo tồn di sản hiện nay, nhất là với DSVHPVT yêu cầu bảo tồn nguyên bản, nguyên gốc các loại hình diễn xướng dân gian trong dòng chảy của cuộc sống cũng cần được nhìn nhận biện chứng. Nói như vậy có nghĩa đặt ra yêu cầu bảo tồn di sản là cần thiết.
Nhưng trong quá trình phát triển có những sự biến đổi của di sản có thể được chấp nhận. Chỉ có điều khi người ta đặt quá nặng vấn đề lợi nhuận lên trên di sản, khiến cho biến dạng những giá trị của di sản, nhất là khi sự biến đổi ấy làm cho số đông dư luận thấy không ổn và phản đối rần rần…thì chính quyền sở tại, những người có trách nhiệm quản lý di sản cần phải xem xét lại một cách thật nghiêm túc.
Vấn đề then chốt của việc kiểm kê là phải xác định cho được các biện pháp để bảo vệ di sản. Lưu giữ trong cộng đồng hay là vinh danh di sản? Sau vinh danh di sản có được bảo tồn tốt hơn? Đó vẫn là những đề tài tranh cãi còn dang dở.
Chỉ biết rằng phải có chủ thể gìn giữ di sản, phải có người chịu trách nhiệm về sự sống còn của di sản đó. Thế giằng co di sản nhìn ở một góc độ hẹp - đôi khi chính là sự giằng co giữa cộng đồng và nhà quản lý văn hóa, chứ chưa hẳn là những nguyên nhân lớn lao hơn.