Kỷ niệm 80 năm Ngày Thành lập Mặt trận Việt Minh (19/5/1941 - 19/5/2021): Mặt trận Việt Minh với Cách mạng Tháng Tám

Nguyễn Túc (Ủy viên Đoàn Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam) 18/05/2021 07:10

15 năm kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến Cách mạng Tháng Tám 1945, trong điều kiện hoạt động bí mật, bị địch đàn áp, khủng bố tàn bạo, trải qua 3 cao trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945, Đảng đã lãnh đạo toàn dân đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, Tổng khởi nghĩa thành công, giành độc lập, tự do cho đất nước.

Khẩu hiệu của Việt Minh kêu gọi đồng bào gia nhập Việt Minh và đoàn kết đánh đuổi Nhật – Pháp, tháng 8/1945. Ảnh: Tư liệu.

Năm 1941, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến mới. Cuộc chiến thế giới lần thứ hai ngày càng quyết liệt. Phong trào đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa mở rộng và dâng cao. Ở trong nước, Nhật, Pháp ra sức đàn áp, vơ vét làm cho nhân dân ta, kể cả tư sản, địa chủ, trí thức cũng phẫn uất.

Thấy rõ hướng chuyển của tình thế, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người triệu tập Hội nghị Trung ương để xem xét lại các chính sách của Đảng và nhận định: Cuộc cách mạng trước mắt là cách mạng dân tộc giải phóng nên chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng thổ địa để lôi kéo địa chủ tiến bộ, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Pháp, Nhật.

Theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp - Nhật, lấy tên là Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tắt là Việt Minh.

Hội nghị quyết định lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt Minh và làm cờ của Tổ quốc. Nghị quyết cũng quy định cụ thể cách tổ chức Việt Minh, cách lãnh đạo Việt Minh, những nội dung về công tác tuyên truyền, công tác đấu tranh và chỉ rõ trong những điều kiện nhất định có thể tiến hành khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.

Ngày 6/6/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc có thư “Kính cáo đồng bào” Người chỉ rõ: “Dân ta một cổ hai tròng. Đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật”. Người kêu gọi “con Lạc cháu Hồng cùng nhau đoàn kết đặt quyền lợi dân tộc cao hơn hết, quyết đánh đổ đế quốc và Việt gian, cứu giống nòi ra khỏi nước sôi, lửa bỏng. Việc cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm”.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 5/1941 và “Kính các đồng bào” được vận dụng sáng tạo trong Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ của Việt Minh. Đây là lần đầu tiên, Mặt trận dân tộc thống nhất trình bày rõ đường lối, chính sách, cách thức tiến hành và tổ chức lực lượng đấu tranh để thực hiện mục đích cứu quốc. Các văn kiện nêu trên của Việt Minh có sức lôi cuốn mạnh mẽ các tầng lớp đồng bào “sĩ, nông, công, thương, binh, phú hào yêu nước, phụ lão thương nòi” tham gia Mặt trận Việt Minh.

Chương trình Việt Minh đáp ứng nguyện vọng bức thiết của các tầng lớp nhân dân ta là giành độc lập, tự do vì “một là ích quốc, hai là lợi dân”.

Mười chính sách mà Việt Minh đề ra gồm chính sách chung cho toàn dân tộc và những chính sách cụ thể đáp ứng lợi ích cho từng giai tầng xã hội. “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thẩy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính sách đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng sinh tồn… Coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thẩy, Việt Minh sẵn sàng giơ tay, đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật - Pháp để dựng nên nước Việt Nam tự do, độc lập”.

Sau khi giành được độc lập, Việt Minh chủ trương:

1. Đối với tư sản: Được tự do kinh doanh, được giúp đỡ mở mang các ngành kỹ nghệ cần thiết.

2. Đối với địa chủ: Quyền sở hữu ruộng đất cần được coi trọng; được khai phá đất hoang.

3. Đối với nhà buôn: Được tự do thông thương; sản nghiệp thương mại được pháp luật bênh vực.

4. Đối với thợ thuyền được hưởng Luật Lao động, bỏ các giấy giao kèo nô lệ, lập giấy giao kèo chung giữa chủ và thợ; thợ thuyền già có lương hưu trí, cải thiện chế độ học việc.

5. Đối với dân cày: có đủ ruộng cầy; được cứu tế trong những năm mất mùa. Tá điền được giảm địa tô”.

Do những chính sách đề ra đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân nên được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, đi theo. Nhờ đó, Việt Minh phát triển nhanh chóng mặc dù bị kẻ địch khủng bố gắt gao…

Cao Bằng trở thành trung tâm của phong trào cứu quốc. Tháng 6 năm 1941 Ban lâm thời Việt Minh Cao Bằng được thành lập. Ngày 25/1/1942 báo Cứu Quốc - Cơ quan của Tổng bộ Việt Minh ra số đầu tiên và phát hành từ Thanh, Nghệ Tĩnh trở ra. Khắp các địa phương trong toàn quốc các đoàn thể cứu quốc và Mặt trận Việt Minh lần lượt được thành lập. Cùng với việc chuẩn bị về chính trị và nhân sự, các đội tự vệ cứu quốc, tự vệ chiến đấu được thành lập và được huấn luyện quân sự.

Trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, tháng 2/1943, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng nhận thấy cần có các biện pháp thúc đẩy nhanh hơn nữa để sớm đưa cách mạng nước ta đi tới cao trào. Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa và tiến hành mọi mặt công tác chuẩn bị tiến tới việc Tổng khởi nghĩa.

Từ ngày 25 đến ngày 28/2/1943 Ban Thường vụ Trung ương họp tại làng Võng La huyện Đông Anh tỉnh Phúc Yên để quyết định những vấn đề cấp bách. Hội nghị chủ trương ra sức phát triển Việt Minh. Hội nghị thông qua “Đề cương văn hóa Việt Nam” để tập hợp các văn nghệ sĩ và trí thức vào “Hội văn hóa cứu quốc” - một thành viên của Mặt trận Việt Minh. Tháng 8/1944, Tổng bộ Việt Minh kêu gọi và phát động phong trào “sắm vũ khí đuổi thù chung”, phong trào xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.

Tháng 10 năm 1944, Bác Hồ có thư kêu gọi đồng bào ra sức chuẩn bị để họp Toàn quốc đại biểu đại hội trong năm 1945. Trên cơ sở lực lượng vũ trang nhân dân đang hình thành, ngày 22/12/1944 Hồ Chủ tịch ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.

Đêm ngày 9/3/1945 Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương. Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị phổ biến đến đâu thì ở đó xuất hiện cao trào cách mạng. Các đội tự vệ chiến đấu và các đội tuyên truyền xung phong hoạt động công khai ngay cả ở các thị xã và thành phố nơi có quân Nhật đóng, kêu gọi đồng bào tham gia Việt Minh, đánh Nhật và trừ Việt gian.

Chiến tranh du kích ngày càng được mở rộng với những cuộc phục kích, tập kích nhằm vào quân Nhật, kết hợp với những cuộc khởi nghĩa lập các chiến khu ở nông thôn, miền núi, tạo điều kiện thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng thành Việt Nam giải phóng quân và thành lập khu giải phóng ngày 4/6/1945, gồm phần lớn 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang.

Việt Minh kêu gọi “phá kho thóc, giải quyết nạn đói”, hàng vạn nông dân vùng lên đấu tranh mạnh mẽ chống phát xít Nhật và chính quyền bù nhìn. Tại khắp các tỉnh từ miền Trung trở ra, quần chúng hăng hái tham gia các Hội Cứu quốc - thành viên của Mặt trận Việt Minh. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc kêu gọi đồng bào tiến lên dưới cờ Việt Minh: “Giờ quyết định vận mệnh dân tộc đã điểm, hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Thời cuộc chuyển biến mau lẹ, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập lúc 11 giờ đêm 13/8/1945 trước giờ Nhật đầu hàng Đồng Minh, hội nghị toàn quốc của Đảng họp trong các ngày 13 đến 15/8/1945. Tiếp sau đó Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào trong hai ngày 16 và 17/8; thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh.

Ngày 19/8/1945, Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thành công, nước Việt Nam mới ra đời.

(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Kỷ niệm 80 năm Ngày Thành lập Mặt trận Việt Minh (19/5/1941 - 19/5/2021): Mặt trận Việt Minh với Cách mạng Tháng Tám