Từ một làng công nhân mỏ than vào những năm 70 của thế kỷ trước, đến nay, thế hệ thứ 2, thứ 3 đã chuyển sang làm nghề dạy học. Ước mơ của những thế hệ đi trước nuôi chí lớn, định hướng thế hệ tiếp nối ở làng Mỏ, xã Tam Quang, huyện Tương Dương (Nghệ An) đã trở thành hiện thực.
Thế hệ đầu tiên của làng Mỏ, xã Tam Quang có mặt tại đây từ những năm 1970. Họ là những công dân tứ xứ lên làm công nhân mỏ than Khe Bố. Từ một vài ngôi nhà ban đầu, đến nay làng Mỏ đổi thay, thành khu dân cư khá sầm uất. Có được ngày này là bởi từ hàng chục năm trước, các thế hệ cha ông, hàng ngày lấm lem với bụi than vẫn ấp ủ, định hướng con cháu, thế hệ tương lai trở thành người dạy chữ. Dẫu cuộc sống khốn khó, vất vả nhưng họ luôn tập trung lo toan cho việc nuôi dạy con cái ăn học nên người. Để rồi, đến ngày hôm nay, làng Mỏ có hàng trăm con em làm nghề giáo viên, trở thành tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo.
Làng Mỏ còn có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng với họ, cái tên “làng giáo viên” được yêu thích nhất. Bởi đó là niềm tự hào, niềm mong mỏi mà các thế hệ đã dày công gây dựng cách đây hơn nửa thế kỷ.
Ông Lê Văn Vỹ - Trưởng làng Mỏ hồ hởi nói: “Làng chúng tôi chỉ hơn 180 hộ dân, nhưng có tới 108 người làm nghề dạy học. Trong đó, có gần 20 người đang là quản lý, hiệu trưởng hoặc hiệu phó các trường trên địa bàn. Đặc biệt, ở Trường Tiểu học Tam Quang 1, cả hiệu trưởng và 2 hiệu phó đều là con em làng Mỏ”.
Theo ông Vỹ, đấy mới tính những người hiện đăng ký hộ khẩu trong làng, chưa kể còn nhiều trường hợp con em đi dạy rồi lấy chồng ở nơi khác hoặc những người ra trường được phân công đi dạy xa quê, hiện đã chuyển khẩu. “Nếu tính cả thì đông lắm. Hầu như nhà nào cũng có ít nhất 1 người làm nghề giáo”- ông Vỹ khoe.
Lâu nay, người ta biết đến huyện Tương Dương nói riêng và các huyện miền núi cao xứ Nghệ là địa bàn heo hút, xa xôi và rất khó khăn. Việc đi học đầy đủ đã rất khó, nói chi đến chuyện theo nghề, theo nghiệp. Thành ra, so với những ngôi làng dưới xuôi thì số con em làng Mỏ thoát ly nhiều như vậy thuộc dạng “hàng hiếm”, quá đặc biệt. Đối với bản làng vùng cao như Tương Dương, điều này quả rất đáng đáng khâm phục.
Nhớ lại những tháng ngày lập làng, ông Vỹ kể: Làng Mỏ nằm ở tả ngạn sông Lam, dựa lưng vào dãy núi đá sừng sững. Gọi là làng Mỏ, bởi những năm 70 của thế kỷ trước, xí nghiệp khai thác than Khe Bố được đầu tư bài bản, thu hút hàng trăm công nhân trong tỉnh lên an cư lập nghiệp.
Do đường sá xa xôi, những công nhân ấy đã đưa cả vợ, con từ quê lên rồi dựng nhà ở khu đất ven sông để sinh sống. Nhiều công nhân sau khi về hưu, vì đã quen với rừng núi, cũng quyết định ở lại. Cứ như thế, làng Mỏ dần được hình thành. “Ở đây, dường như thế hệ đầu tiên đều là cán bộ, công nhân mỏ than. Còn thế hệ thứ 2 hầu hết đều được bố mẹ định hướng đi làm nghề giáo. Chúng tôi hay gọi vui nhau là “đời công nhân nuôi những ông đồ” là vì thế”- ông Vỹ tâm sự.
Làng Mỏ chính thức được thành lập vào năm 1985, với khoảng 50 hộ dân. Ông Phan Văn Đạt, nay đã 74 tuổi, là 1 trong 50 hộ dân đầu tiên của làng. Vợ chồng ông Đạt từ huyện Đô Lương lên định cư ở đây vào năm 1983. Họ có với nhau 5 người con gái thì tất cả hiện đều là giáo viên. Tính cả con rể, ông Đạt có đến 6 người chọn theo nghiệp cầm phấn. Ở làng Mỏ, những gia đình có đến 6 người con làm giáo viên như gia đình ông Đạt không hiếm, thậm chí có nhà đến 8 người cùng làm nghề dạy học.
Ông Phan Văn Đạt nhớ lại: “Thời ấy, suốt ngày lầm lũi, nhem nhuốc trong hầm than mà không đủ ăn nên ai cũng muốn con cái mình thoát cái cảnh cơ cực này. Vì thế, dù rất cực khổ nhưng gia đình nào cũng đầu tư, động viên con em cố gắng học hành và định hướng cho các con theo nghề giáo vì nghĩ nó không vất vả như làm mỏ than, lại được trân trọng”.
Đến nay, nghề làm than ở nơi đây chỉ còn là quá khứ, các thế hệ tiếp theo của làng Mỏ đã không còn “nhem nhuốc” vì bụi. Hầu hết, con em của làng cơ bản đã là người dạy chữ. Họ nhớ lại rằng, khi đầu tư cho con cái đi theo nghề giáo, với hy vọng, con cái thoát khỏi cảnh làm công nhân vất vả. Nhưng những người dân làng Mỏ không thể ngờ rằng, khi con cái ra trường, nhận công tác, đi gieo con chữ ở huyện vùng cao Tương Dương này còn gian nan, vất vả hơn cả làm công nhân mỏ ngày xưa, đường sá đi lại khổ không nói hết, có nhiều điểm trường, phải mất từ 3-5 ngày đường, mới đi tới nơi.
Song, vượt lên tất cả, người dân làng Mỏ vẫn xem nghề giáo là một cái gì đó thiêng liêng, cao quý. Ông Đạt bộc bạch gia cảnh, con gái đầu của ông, sau khi ra trường được phân về dạy trong huyện, nhưng cách nhà gần 100 km. Khi ấy khó khăn về phương tiện và đường sá, mỗi lần đến trường cô giáo trẻ này đều phải đi bộ. Hơn thế, ở thời điểm khó khăn ấy, đồng lương giáo viên thấp hơn cả lương công nhân mỏ nên gia đình cũng có chút thất vọng. “Nhưng, mấy đứa sau, tôi vẫn định hướng chúng đi theo nghề giáo, vì dù sao đó là một nghề cao quý, được xã hội coi trọng” - ông Đạt chia sẻ.
Cách nhà ông Đạt một quãng là nhà của thầy Nguyễn Hồng Hoàn. Thầy Hoàn hiện là Hiệu trưởng Trường Tiểu học Tam Quang 1, vợ giữ chức Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Tam Quang 2 trong xã. Gia đình thầy Hoàn cũng có đến 5 chị em ruột đi theo nghề giáo, tính cả dâu và rể nữa là 8 người. Ngoài ra, thế hệ con cháu đang có 5 người làm giáo viên. Chưa kể, con trai thầy Hoàn hiện đang theo học một trường sư phạm ở Hà Nội.
Thầy Hoàn tâm sự: “Chị em chúng tôi là những thế hệ thứ 2 ở làng Mỏ đi làm nhà giáo, đúng theo ước mơ của bố mẹ, họ chỉ mong con làm nghề giáo viên để bớt vất vả hơn. Nhưng nghề này ở vùng cao lại còn khó khăn gấp bội. Có năm, tôi phải mất 4 ngày mới đi được từ nhà đến trường, dù trường nằm trong huyện”.
Sau hơn 30 năm ra trường, đây mới là năm đầu tiên thầy Đạt được về công tác tại xã nhà. Dù vậy, thầy Đạt vẫn định hướng cho các con theo nghề giáo viên. Đó không chỉ mơ ước của cha ông nữa mà còn góp phần vào bề dày truyền thống lịch sử hiếu học của làng. Con số thống kê cho thấy, Tam Quang là xã có tới 311 người đang công tác trong lĩnh vực giáo dục, chưa kể số lượng lớn đã về hưu hoặc chuyển đi nơi khác. Trong đó, làng Mỏ chiếm số lượng đông đảo. Nói về “làng giáo viên”- làng Mỏ, bà Kha Thị Hiền - Chủ tịch UBND xã Tam Quang chia sẻ: Dù cuộc sống của những người giáo viên vùng cao này vẫn chưa hết chật vật. Nhưng, điều mà họ luôn cảm thấy hạnh phúc đó là vượt qua gian khó để gieo chữ và mang được tri thức đến với học sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nơi núi rừng này.
Con đường đến làng Mỏ đã thuận tiện hơn nhờ có cây cầu vững chãi bắc qua sông Lam từ 10 năm trước. Con em làng Mỏ dù đi đâu vẫn luôn nhớ mãi về ngôi làng “nhập cư” tuy nghèo khó về vật chất nhưng lại giàu có về tinh thần hiếu học. Ở đó, luôn có những ông bố, bà mẹ, cả một đời công nhân lam lũ nhưng chưa bao giờ nguôi khát vọng vì một ngày mai tươi sáng cho con em mình. Bởi vậy, nghề giáo với cư dân làng Mỏ thật cao cả và thiêng liêng.