Báo Đại Đoàn Kết Xã hội

Năm 2036 sẽ khép lại thời kỳ cơ cấu dân số vàng

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Năm 2036 sẽ khép lại thời kỳ cơ cấu dân số vàng

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News
Năm 2036 sẽ khép lại thời kỳ cơ cấu dân số vàng
Thời kỳ cơ cấu dân số vàng sẽ qua nhanh. Ảnh: Quang Vinh.

Sáng 23/12, Cục Thống kê chủ trì, phối hợp với Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tổ chức Hội thảo công bố các kết quả nghiên cứu chuyên sâu được xây dựng từ kết quả Điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ và Điều tra, thu thập thông tin thực trạng kinh tế-xã hội của 53 dân tộc thiểu số với 3 báo cáo nổi bật.

3 kịch bản dân số Việt Nam

Phát biểu khai mạc tại hội thảo, bà Đỗ Thị Ngọc - Phó Cục trưởng Cục Thống kê cho biết các kết quả nghiên cứu cung cấp bằng chứng thống kê quan trọng phục vụ đánh giá thực trạng và điều chỉnh chính sách phát triển vùng, đô thị, thị trường lao động và phân bố dân cư.

"Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu khẳng định vai trò của dữ liệu thống kê và bằng chứng khoa học trong xây dựng chính sách dân số, lao động, an sinh xã hội và phát triển bền vững" - bà Ngọc nhấn mạnh.

Báo cáo tại hội thảo, ông Nguyễn Huy Minh - Phó Trưởng ban Ban Thống kê dân số và lao động, Cục Thống kê cho biết, báo cáo “Dự báo dân số Việt Nam giai đoạn 2024-2074" Cục Thống kê cung cấp bức tranh toàn diện về xu hướng biến đổi quy mô, cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính, cũng như sự phân bố dân cư của Việt Nam trong nửa thế kỷ tới, phản ánh quá trình chuyển đổi nhân khẩu học đang diễn ra và có nhiều điểm tương đồng với xu thế trên thế giới.

Kết quả dự báo cho thấy dân số Việt Nam tiếp tục tăng trong các thập kỷ tới nhưng tốc độ có xu hướng giảm dần và dự kiến đạt đỉnh vào khoảng năm 2059 theo phương án trung bình trước khi chuyển sang giai đoạn tăng chậm hoặc ổn định.

Dự kiến, trong vòng 50 năm tới, từ 2024 - 2074, dân số Việt Nam theo 3 kịch bản về mức sinh thấp (1,45 con/phụ nữ), mức sinh trung bình (1,85 con/phụ nữ), và mức sinh cao (2,01 con/phụ nữ) sẽ tăng thêm tương ứng là 2,5%, 12,7%, và 17,0%, đạt lần lượt là 103,9; 114,2 và 118,5 triệu người.

Thời kỳ cơ cấu dân số vàng (tức cứ hai người trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi) "gánh đỡ" một người ở độ tuổi phụ thuộc - dưới 15 hoặc từ 65 trở lên) sẽ khép lại vào năm 2036, nhường chỗ cho thời kỳ dân số già và siêu già, thể hiện qua sự thu hẹp các nhóm tuổi trẻ và trung niên, cùng với sự gia tăng nhanh của nhóm dân số cao tuổi.

Bên cạnh đó, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh kéo dài đến giữa thế kỷ 21 tiếp tục tác động đến cơ cấu giới tính của dân số, trong khi quá trình đô thị hóa vẫn diễn ra. Di cư nội địa tiếp tục là một trong những nhân tố quan trọng làm thay đổi phân bố dân cư giữa các vùng, phản ánh sự khác biệt về điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và khả năng thu hút, sử dụng lao động của các địa phương.

Trên cơ sở các xu hướng nhân khẩu học và các kịch bản dự báo, báo cáo đề xuất một số hàm ý chính sách nhằm giúp Việt Nam chủ động thích ứng với bối cảnh dân số mới, tập trung vào việc tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số và chủ động ứng phó với các hệ lụy của mất cân bằng giới tính khi sinh. Đây là những yếu tố then chốt góp phần bảo đảm phát triển bền vững nguồn nhân lực và củng cố nền tảng dân số cho tương lai.

Quy mô di cư nội địa giảm

Đối với Báo cáo “Di cư nội địa Việt Nam giai đoạn 2009-2024" Cục Thống kê đã tổng hợp và phân tích xu hướng, quy mô, cơ cấu và động lực của di cư nội địa trong 15 năm qua, làm rõ mối liên hệ giữa di cư với thị trường lao động, quá trình đô thị hóa và phân bố dân cư.

Kết quả cho thấy quy mô di cư nội địa có xu hướng giảm trong giai đoạn gần đây, từ mức cao khoảng 6,4 triệu người giai đoạn 2014-2019 xuống còn khoảng 3,8 triệu người giai đoạn 2019-2024.

Di cư thành thị-thành thị chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 70%), cho thấy phần lớn người xuất cư từ khu vực thành thị lựa chọn chuyển đến các thành thị khác để sinh sống. Ông Minh cho biết, mặc dù quy mô di cư nội địa giảm mạnh, số người di cư là đồng bào dân tộc thiểu số chỉ giảm nhẹ, làm cho tỷ trọng nhóm này tăng lên đáng kể. Những biến động này cho thấy các chính sách phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực nông thôn, ven đô và các thành phố vệ tinh bước đầu phát huy hiệu quả trong việc tạo việc làm cho người dân.

Tuy nhiên, vẫn cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách theo hướng linh hoạt và bao trùm hơn, chú trọng mở rộng cơ hội việc làm và dịch vụ xã hội tại địa phương, hỗ trợ di cư ngắn hạn và liên vùng, tăng cường các can thiệp đặc thù nhằm bảo đảm đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ cơ bản trong quá trình di cư và ổn định cuộc sống.

Đối với báo cáo “Những khác biệt về đặc trưng kinh tế xã hội và nghèo đa chiều trẻ em trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam", Cục Thống kê cung cấp phân tích toàn diện về điều kiện sống, khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trong các cộng đồng dân tộc thiểu số và mức độ nghèo đa chiều của trẻ em dân tộc thiểu số, đồng thời làm rõ sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm dân tộc và vùng địa lý.

Chẳng hạn như tỷ lệ không biết chữ ở các dân tộc thiểu số nói chung là 15,1% trong khi đó tỷ lệ này đối với các dân tộc rất ít người (dưới 10.000 người) là 32,8%, cao gấp hơn hai lần so với các nhóm dân tộc có quy mô dân số lớn hơn (13,3%).

Kết quả phân tích cho thấy sự khác biệt chủ yếu xuất phát từ những khó khăn mà đồng bào dân tộc thiểu số đang phải đối mặt, như cơ sở hạ tầng còn hạn chế, điều kiện vệ sinh chưa bảo đảm, trình độ học vấn thấp và tình trạng kết hôn sớm. Các yếu tố bất lợi này không chỉ tồn tại riêng lẻ mà còn chồng lấp, làm gia tăng tình trạng bất lợi đa chiều.

Tại hội thảo, các chuyên gia, diễn giả đã thảo luận về những ưu tiên đối với xây dựng chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới phát triển bền vững và bao trùm; các nội dung cần ưu tiên của chính sách dân số...

M. Phương