“Không phải bóng cây đâu/Đó là tay em xòe ngõ/Và mở... giấc anh về/Để - bắt - đầu - như - thế - lại - ra - đi”
Tôi không nhớ mình đã gặp nhà thơ Lê Huy Quang như thế nào, ở đâu. Nhưng thơ anh thì tôi luôn nhớ, thuộc và đọc ở bất cứ đâu tùy thích như bài “Đi” trích dẫn ở trên.
“Tôi vẽ lại Nam Cao từ trí nhớ
Làng Vũ Đại nơi Thị Nở, Chí Phèo cùng anh tâm sự
Rượu đầy rồi Nam Cao ơi...”
Đó là trong “Nam Cao” với những: “Nam Cao ơi/ Hai giờ sáng nay tôi thức chong đèn/ Ba mươi năm rồi vai áo sờn trấn thủ mong manh... Hoặc: “Quê mưa”: Anh yêu màu áo quê mưa em/ hong hong bạc nước/ ngập ngập ao làng/ ngập ngập đường ngang/ lối nhỏ hoa xoan xoan lá đỏ... hoặc như "Sao đổi ngôi": Đêm hè/ sao đổi ngôi/ mặt người câm lặng/ đêm hè/ em đến màu xanh/ em đến tìm anh...
Hay như: “Đêm em”: Không bao giờ như tôi đêm nay thương em/ vóc mặt em góc nhà sắc sẫm/ phố không đèn tôi dậy em hơn...”
Với Lê Huy Quang, làm sao kể hết ra được mà biết đâu chính anh cũng đã quên rồi. Quên như: “Cúi nhặt hình hài em/ chia làm ba khúc ngắn/ kết thành hình viên đạn/ bắn vào thinh không - Cúi nhặt hình hài nhân quả/ đặt kề bên vệ đường/ cúi nhặt hình hài ngọn cỏ/ úa - vàng - mùa - xuân” (Mùa xuân).
Lê Huy Quang là người đặc biệt. Anh lúc nào cũng thúc giục chúng tôi phải làm điều này điều khác, nhất là trong sáng tạo văn chương nghệ thuật. Cuộc sống của anh là những khúc đời sống vừa bình yên vừa lẫm liệt.
Sự nghiệp của Lê Huy Quang bắt đầu từ nghệ thuật tuồng truyền thống và kể từ đấy, anh đã gắn bó với Nhà hát Tuồng trong suốt 30 năm với bề dày thiết kế mỹ thuật sân khấu dân tộc, cùng với trên 300 vở diễn cho các đơn vị nghệ thuật sân khấu trong cả nước, trong đó có những vở diễn đình đám của Nhà hát Tuồng Việt Nam như: “Lý Chiêu Hoàng”, “Nghêu Sò Ốc Hến”, “Hoàng hôn đen”, “Chu Văn An”, “Thánh Gióng”.... Với trên 20 giải thưởng, huy chương vàng, bạc về mỹ thuật sân khấu, hội họa, đồ họa, minh họa, bìa sách và thơ ca, Lê Huy Quang đã khẳng định mình trong lòng đồng nghiệp, bạn bè và khán giả.
Lê Huy Quang luôn khao khát làm mới thơ. Tôi biết anh được các nhà thơ như Văn Cao, Hoàng Cầm... yêu thích. Lê Huy Quang guốc mộc phong sương thực thi công việc đời giao cho mình. Những niềm riêng cất vào một góc. Còn những sự chung vẫn phải lao động đến tận cùng. Đó là thuận theo lẽ phải trong cuộc sống. Từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20, với cảm xúc của một nhà thơ, một tấm lòng đam mê sân khấu, Lê Huy Quang bắt đầu viết kịch. Từ đó, ông sáng tác khá đều đặn, đến nay đã có trên 20 tác phẩm; một số vở diễn đã được các nhà hát dàn dựng cũng như phát sóng trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam.
Nhà viết kịch Ngọc Thụ - Ủy viên Ban Chấp hành, Trưởng ban Sáng tác Hội Sân khấu Hà Nội đã cảm nhận về kịch của Lê Huy Quang: “Lấy cảm hứng chủ đạo là cuộc kháng chiến chống Mỹ và công cuộc xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; hình tượng người lính - anh bộ đội Cụ Hồ - luôn là một nhân vật trung tâm của các vở diễn, trong chiến đấu trước đây, cũng như trong cuộc sống thường nhật hôm nay. Đậm đặc chất thơ, cấu trúc mạch lạc, dung dị và nhiều cảm xúc, suy tưởng, đó là phong cách viết kịch của Lê Huy Quang”.
Dù vậy, thơ anh mới là chính yếu. Như anh viết: “Trắng đêm còn trắng nữa/ trắng cả hai bàn tay/ trắng vô cùng giọt sữa/ trời đất pha vơi đầy - Ta đi lơ đễnh giữa đời/ cạn dòng nước mắt không lời hát ru/ ngửa bàn tay tính cuộc cờ/ bao năm là thế bây giờ là đây (Ở giữa bình yên); “Đừng tìm nhau nữa em ơi/ những câu thơ mùa hè đã chết/ hoa phượng đỏ thắp cao trời ngọn đuốc/ ta gập ghềnh qua buốt gió heo may” (Mùa hè)...
Thơ Lê Huy Quang là cống hiến của anh với văn học - nghệ thuật. Mưu sinh bằng gì chẳng rõ nhưng rõ ràng Lê Huy Quang luôn dành tất cả tài năng và trí tuệ cho thơ. Thơ Lê Huy Quang dường như bất chấp mọi cung bậc thẩm mỹ thông thường. Thơ là phải khác và phải mới. Tất tật những khúc thơ: “Bài hát mở mùa 1988”, “Sao đổi ngôi”, “Đêm em”, “Mùa xuân”, “Bâng quơ”, “Mưa mây”, “Biển trăng”, “Mốt và em”, “Khát vọng”, “Giao thừa”, “Tay em”, “Hững hờ”, “Ba khúc viếng”, “Cầu vồng”, “Chân dung hai mươi mốt”, “Biển cuối”, “Chợ sinh viên”... đều là như vậy.
Nhà thơ Lê Huy Quang là một người siêng năng và thông thái, ông chỉ bảo tôi nhiều điều. Tại sao với riêng thơ, tuyệt đối Lê Huy Quang không chỉ bảo, mà chỉ để đàn em tự ngộ ra: “Nâng giọt rượu vui buồn đắng cay san sẻ/ nỗi đau nào đầy nước mắt nhân gian/ cạn đi em... và say đi em nhé/ trọn tình quê lắng đọng suốt ngàn năm” (Rượu quê); “Anh yêu màu áo quê mưa em/ trẻ con đẵm mình rộn bờ ao/ non non mạ cấy/ khơi khơi mắt giếng tròn/ tre làng lớp lớp măng/ xuôi bè lá/cây đa già tán ô che khắp ngả” (Quê mưa)...
Và nhất là Lê Huy Quang luôn cách ngôn nhắn gửi riêng chung: “Không còn Ông đồ nữa/ giữa phố hè như nêm/ chỉ còn hàng và hóa/ người và xe chật đường” (Ông đồ); “Đường phố em về sau lưng áo/ cái cây chờ cao một bóng xanh/ ai dắt ai về ai thức dậy/ sang đông úa lá khô cành/ có những nấm mồ mùa nào cũng xanh” (Ba khúc viếng Thâm Tâm).
Một Lê Huy Quang với trường ca thuở 20 tuổi xanh với tâm sự hết sức chân thành: “Ngày 2 tháng 9 năm 1969, Bác Hồ - lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa Việt Nam - đã đi vào cõi vĩnh hằng. Không chỉ đồng bào cả nước, bầu bạn khắp năm châu chia niềm đau thương vô hạn, mà ngay cả đất trời, vũ trụ cũng nghiêng mình tưởng niệm Bác. Hà Nội nghiêng mưa suốt cả tuần..." Mới ngoài 20 tuổi, quê cha Hà Tĩnh, quê mẹ Nghệ An, rong ruổi trên chiếc xe đạp cà tàng quanh quanh Hà Nội, tôi bắt đầu viết “Trường ca Hồ Chí Minh” vào tháng 9 năm 1969 đáng buồn đó. Đúng 8 tháng sau, ngày 19/5/1970, kỷ niệm 80 năm Ngày sinh của Bác, tập trường ca hoàn thành. Vậy mà, mãi 20 năm sau, vào dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Bác (19/5/1990), “Trường ca Hồ Chí Minh” mới được Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành ra mắt bạn đọc.
Vậy mà thấm thoắt đã hơn 30 năm.
Quê hương đi mấy vẫn gần. Lê Huy Quang dù có đi đâu về đâu vẫn dành tìm đường về quê. Chúng ta dẫu thành bại thế nào thì hai tiếng quê hương vẫn hết sức thiêng liêng. Lê Huy Quang từng tâm sự: “Vì thế, cứ mỗi lần có dịp trở về thăm quê hương Nghệ - Tĩnh, nơi sinh ra, lớn lên, rồi phải cách xa; trong tôi bao giờ cũng có cảm giác như tự nhìn lại chính mình. Những học hành, làm ăn, công việc, gia đình, bạn hữu, tiền bạc, đất đai, nhà cửa.
Những được thua, còn mất, ngọt ngào, cay đắng. Những danh vọng hào nhoáng, hão huyền... đan xen giữa quá khứ, hiện tại và cả tương lai của một gã trai quê tự ném mình ra giữa chốn Thăng Long phồn hoa đô hội. Nhưng nghĩ cho cùng, hạnh phúc lớn nhất của một người nghệ sĩ, chính là được vẽ, được viết, được sáng tạo với những niềm vui, nỗi buồn của riêng lòng mình...”
Đó cũng là sự tự cân bằng từ quê hương của Lê Huy Quang vậy.
Đêm 21/8/2023 nhà thơ - họa sĩ Lê Huy Quang đã từ biệt chúng ta. Anh như vầng mây trắng phiêu du về phía chân trời, nhưng những đóng góp của anh cho văn chương - nghệ thuật, nhất là thơ ca thì vẫn luôn đọng lại.
Nhà thơ - họa sĩ - NSND Lê Huy Quang - Thư ký tòa soạn Tạp chí Âm nhạc Việt Nam, đã qua đời đêm 21/8. Ông sinh năm 1944, nguyên quán Thạch Hà, Hà Tĩnh. Ông tốt nghiệp lớp Trung cấp và Cao đẳng Mỹ thuật trường Nghệ thuật Hà Nội; Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh.
Từ năm 1976, ông làm báo tại Tạp chí Sân khấu đồng thời trở thành họa sĩ thiết kế mỹ thuật Nhà hát Tuồng Việt Nam. Bên cạnh đam mê mỹ thuật, ông còn là một nhà thơ. Tập thơ “Phải khác” gồm 108 bài là các sáng tác của ông từ năm 1968 - 2008, không những bày tỏ quan điểm sống mà còn thể hiện quan niệm nghệ thuật của ông.
NSND Lê Huy Quang đã đoạt nhiều giải thưởng về hội họa, bìa sách, đồ họa, trang trí sân khấu và thơ. Đặc biệt, ông đã có hơn 20 huy chương vàng, bạc tại các Hội diễn sân khấu toàn quốc.