Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, mục tiêu tăng trưởng hai con số từ sau năm 2026 đặt ra yêu cầu bức thiết về một đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh và hội nhập quốc tế. Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, nghị quyết chiến lược, song thách thức về đào tạo, sử dụng và giữ chân nhân tài vẫn là câu hỏi lớn cần lời giải căn cơ và sáng tạo.
Thiếu hụt nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực luôn được xác định là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Trong giai đoạn 2021-2024, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản định hướng, chủ trương phát triển nguồn nhân lực, nhân lực chất lượng cao. Trong thời gian gần đây, Bộ Chính trị đã ban hành bốn nghị quyết chiến lược, trong đó đều xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, là yếu tố then chốt để triển khai thành công các nghị quyết. Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã ban hành văn bản pháp luật, chương trình, đề án, tập trung chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển và sử dụng nguồn nhân lực.
Tuy nhiên, báo cáo giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho thấy Việt Nam đang đối diện nguy cơ thiếu hụt nghiêm trọng nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là các chuyên gia đầu ngành, “tổng công trình sư”, nhóm nghiên cứu mạnh trong lĩnh vực khoa học – công nghệ, kinh tế số, quốc phòng, an ninh và các lĩnh vực quan trọng khác.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ mới đạt 28,3% vào năm 2024, nghĩa là cả nước vẫn còn khoảng 38 triệu lao động chưa qua đào tạo. Đáng chú ý, tới 64,6% lực lượng lao động hiện đang làm việc phi chính thức, thu nhập thấp, điều kiện làm việc không bảo đảm.
Một bộ phận sinh viên tốt nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu doanh nghiệp. Khoảng 30% không làm việc trong lĩnh vực được đào tạo. Một bộ phận nhà giáo còn hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp. Chiến lược đầu tư phát triển giáo dục đại học còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, chính sách tự chủ đại học còn nhiều bất cập.
Chưa kể, việc phân bố nguồn nhân lực chất lượng cao còn mất cân đối, tập trung ở các đô thị lớn. Chất lượng lao động cải thiện chậm, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường lao động trong bối cảnh đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Việc tuyển dụng, sử dụng nguồn nhân lực ở khu vực công, nhất là trong đơn vị sự nghiệp công lập còn một số bất cập. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ở nước ngoài sử dụng ngân sách nhà nước chưa đạt hiệu quả cao, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Phát biểu tại tổ về tình hình kinh tế xã hội tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính thẳng thắn nêu rõ, năng suất lao động của Việt Nam còn thấp, kém cạnh tranh, và điều này phụ thuộc rất lớn vào chất lượng nhân lực. “Những năm qua, Việt Nam đặt chỉ tiêu tăng năng suất lao động, nhưng đều không đạt được. Do đó phải thay đổi cách thức và định hướng đào tạo phù hợp” – Thủ tướng khẳng định.
Doanh nghiệp khát lao động kỹ thuật cao
Trong bối cảnh dòng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tăng mạnh, nhu cầu lao động kỹ năng cao càng trở nên cấp bách. Ông Lê Tiến Trị, Trưởng Ban Quản lý Khu Kinh tế Đông Nam (tỉnh Nghệ An) cho biết, hiện nay công nghệ tiên tiến và các dây chuyền sản xuất hiện đại đã được ứng dụng vào sản xuất. Cùng với đó là việc áp dụng mô hình quản lý mới của các doanh nghiệp FDI đòi hỏi lao động địa phương phải nâng cao chất lượng để thích ứng. Do đó, lao động địa phương buộc phải thay đổi do nhu cầu lao động trong khu vực doanh nghiệp FDI đang chuyển sang các ngành nghề yêu cầu kỹ thuật cao như: lắp ráp tự động hóa, sản xuất linh kiện điện tử, may mặc xuất khẩu, linh kiện ô tô và năng lượng xanh.
Do đó, để đáp ứng được chất lượng nguồn nhân lực thì việc đào tạo lao động đang được các doanh nghiệp hết sức quan tâm, bởi nếu không sẽ lạc hậu. Theo ông Trị, tùy thuộc vào nhu cầu của mỗi doanh nghiệp và vị trí việc làm mà bố trí, sử dụng và đào tạo cho phù hợp. Doanh nghiệp FDI thường phải cử lao động địa phương ra nước ngoài đào tạo hoặc đưa chuyên gia quốc tế về để hướng dẫn tại chỗ. Tuy nhiên, theo ông Trị, việc đào tạo này mới chỉ đáp ứng một phần nhỏ nhu cầu. Lao động có kỹ năng và chuyên môn cao vẫn thiếu hụt trầm trọng.
“Tại Khu Kinh tế Đông Nam, giai đoạn từ năm 2025 đến 2029, dự kiến nhu cầu lao động cho các dự án trọng điểm sẽ lên tới khoảng 98.701 người, đặc biệt trong các ngành yêu cầu tay nghề cao, khả năng vận hành máy móc tự động hóa, kỹ thuật điện tử và các ngành công nghiệp hỗ trợ” - ông Trị dự báo.
Ở khu vực tư nhân, tình trạng thiếu hụt càng rõ rệt. Ông Đỗ Văn Vẻ, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Hương Sen, trải lòng: “Chất lượng lao động hiện nay vẫn thấp. Nhiều máy móc công nghệ hiện đại nếu không được đào tạo căn cơ sẽ khó khăn trong vận hành. Sinh viên ra trường còn bỡ ngỡ, phải đào tạo bổ sung thêm một thời gian mới quen dần và làm được việc”.
Từ hình hình thực tế của doanh nghiệp, ông Vẻ nêu rõ, cần tạo điều kiện cho người lao động có thực tiễn trong quá tình đào tạo, học, thực tập, tránh việc đi sâu vào lý thuyết mà nhẹ thực hành. “Cái chính là chất lượng đào tạo của ta còn nặng lý thuyết mà nhẹ thực hành. Phải tăng cường thực hành để sinh viên khi ra trường có thể làm được việc ngay, không phải đào tạo lại” – ông Vẻ nói.
Thuê chuyên gia nước ngoài để đáp ứng ngay yêu cầu phát triển
Ông Nguyễn Quang Huân, Phó Chủ tịch Hội Doanh nhân tư nhân Việt Nam, cho biết ngay cả doanh nghiệp của ông cũng phải thuê chuyên gia nước ngoài mới đáp ứng được yêu cầu công việc. Lý do nằm ở tính chuyên nghiệp, kỷ luật, sáng tạo và khả năng tạo ra năng suất vượt trội. Trong các lĩnh vực mang tính đột phá như trí tuệ nhân tạo, đôi khi chỉ có chuyên gia quốc tế mới đáp ứng được. Theo ông Huân, chiến lược “cài” lao động trong nước vào làm cùng chuyên gia ngoại để học hỏi trực tiếp – “học qua hành” – chính là một lối đi thiết thực để nâng cao chất lượng nhân lực.
Bài toán đào tạo và giữ chân nhân tài
Theo GS.TS Phạm Tất Dong, nguyên Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam, trong các văn kiện gần đây của Đảng có nói nhiều đến cụm từ nguồn nhân lực chất lượng cao. Về mặt thuật ngữ có thể hiểu “nguồn nhân lực” nghĩa là lực lượng đang đào tạo như sinh viên, các học sinh ở các trường đào tạo nghề. Như vậy người trẻ là nguồn nhân lực của đất nước trong tương lai.
Bởi vậy, theo ông Dong, đích đào tạo sắp tới của chúng ta nếu muốn có nguồn nhân lực chủ lực phải tập trung đào tạo ở bậc đại học. Đây mới là lực lượng dùng cho cuộc cạnh tranh toàn cầu. Việc đầu tư để có một đội ngũ lao động qua đào tạo đại học đi sâu vào các lĩnh vực công nghệ, vào những lĩnh vực chiến lược, làm chủ công nghệ lõi, mới là lực lượng xung kích làm chủ khoa học công nghệ.
“Chúng ta phải đi nhanh trên con đường tiếp cận những công nghệ mới, đây chính là xương sống của đổi mới và cạnh tranh. Hơn lúc nào thay đổi cơ bản số một là phải làm cuộc cách mạng trong trường đại học, chú trọng đào tạo cho nguồn nhân lực tại chỗ để nâng cao tay nghề, năng suất lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng” - GS.TS Phạm Tất Dong nhấn mạnh.
Ông Dong cũng đưa ra phân tích rằng, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định 3 khâu đột phá chiến lược để phát triển đất nước. Trong đó, có đột phá về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Phải làm sao để tất cả người lao động đều có chất lượng, trở thành nhân lực mũi nhọn trong tổ chức sản xuất. Lực lượng này phải đủ hiểu biết để làm chủ cuộc cách mạng 4.0, làm chủ công nghệ số, từ đó tham gia sâu hơn vào nền kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.
Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh thu hút nhân tài quốc tế ngày càng gay gắt, GS.TS Phạm Tất Dong cho rằng, Việt Nam cần chính sách hấp dẫn để lôi cuốn học sinh, sinh viên giỏi theo học các ngành mũi nhọn: toán học, vật lý, công nghệ lõi, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn.
Ông cũng đề xuất song hành với nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cần cuộc “cách mạng” trong hệ thống trường nghề để kịp thời cập nhật kỹ năng mới của cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Bên cạnh đó, phải xây dựng một hệ thống giáo dục mở, cung cấp dịch vụ học tập suốt đời, để bất kỳ ai khi có nhu cầu cũng có thể tiếp cận.
Khơi dậy niềm tự hào dân tộc trong thu hút trí thức kiều bào
Ông Nguyễn Ngọc Cương, Phó Chủ tịch Hội người Hải Phòng tại Liên bang Nga, nhấn mạnh nhiều trí thức Việt kiều sẵn sàng cống hiến khi được tạo môi trường thuận lợi: phòng thí nghiệm hiện đại, cơ chế vốn, chính sách đầu tư ban đầu. Họ không đặt nặng đãi ngộ vật chất, mà mong được ghi nhận, khen thưởng và khích lệ. “Dù là thế hệ thứ ba, họ vẫn là con Lạc cháu Hồng” – ông Cương nói, và cho rằng việc khơi dậy niềm tự hào dân tộc sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để trí thức Việt kiều mang “chất xám” về đóng góp cho đất nước.
Kết hợp sức mạnh Nhà nước - tư nhân để thu hút chuyên gia
Thực tế, nguồn lực không chỉ ở trong nước thông qua việc đào tạo, mà còn nguồn lực rất lớn từ bên ngoài. Đó là các chuyên gia nước ngoài, các chuyên gia, trí thức là người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Mới đây, tại cuộc họp Ban Chỉ đạo của Chính phủ về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực, nhân tài khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong và ngoài nước; có chính sách đãi ngộ đặc biệt để thu hút ít nhất 100 chuyên gia hàng đầu về nước làm việc, hoàn thành trong tháng 8/2025.
Để thu hút nhân tài, nhất là đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, cần có những chính sách và môi trường đặc biệt. Đại sứ Phạm Quang Vinh, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ cho rằng: “Lương không phải là yếu tố lớn nhất. Điều quan trọng là ý kiến, khát vọng của họ phải trở thành sản phẩm cụ thể đóng góp cho sự phát triển đất nước”.
Là một chuyên gia cao cấp hàng đầu thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng Plasma nhiệt độ thấp, Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Quốc Sỹ, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học điện Liên bang Nga, Chủ tịch Viện Công nghệ VinIT cho rằng, Nghị quyết 57 đã mở và mong muốn thu hút cán bộ tri thức người Việt Nam ở nước ngoài. Quan trọng là làm thế nào thu hút được người tài về nước. Ông Sỹ cho rằng, muốn thu hút chuyên gia giỏi về nước, phải có cả một hệ sinh thái, chứ không chỉ là lương hay nhà ở. Quan trọng hơn là phải tạo điều kiện để họ sống được và làm việc hiệu quả và cũng đề xuất không phân biệt người Việt Nam hay người nước ngoài, miễn là họ có năng lực và khát vọng cống hiến cho Việt Nam.
“Chúng ta đã có bài học về vấn đề này. Bây giờ cần rút kinh nghiệm, và cần có mô hình mới, phương pháp mới để sát với thực tế. Áp theo mô hình của các nước khác chưa chắc đã thành công vì nó phù hợp với điều kiện của họ. Cho nên ta phải có cách đi riêng, có cái học tập họ, nhưng có cái cần sáng tạo” – ông Sỹ nói.
Trả lời về việc tại sao khối nhà nước thu hút đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học về nước không bằng so với khối tư nhân, ông Sỹ nêu, tư nhân tự quyết được nhiều vấn đề, tránh được cơ chế chồng chéo của khối nhà nước. Nhưng tư nhân cũng có nhược điểm, đó là năng lực còn hạn chế. Do đó, chúng ta cần kết hợp lại để đưa ra cơ chế chính sách, cách làm tốt nhất. Cả nhà nước, cả doanh nghiệp tư nhân cần “bắt tay” nhau làm mới thành công. Nếu cứ riêng lẻ thì khó phát huy hết nội lực hệ thống của mình, khả năng của mình để thu hút chuyên gia giỏi về Việt Nam làm việc.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ là yêu cầu bức thiết để bảo đảm tăng trưởng kinh tế mà còn là điều kiện tiên quyết để đất nước nắm bắt cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số. Để thực hiện thành công, cần sự vào cuộc đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội, kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo – sử dụng – đãi ngộ – giữ chân nhân tài. Đây không chỉ là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo mà còn là khát vọng chung của toàn dân tộc trên hành trình vươn tới một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.
Giữ chân nhân tài - nghệ thuật lớn hơn cả việc thu hút
Giáo sư, Viện sĩ Nguyễn Quốc Sỹ, Chủ tịch Viện Công nghệ VinIT nhấn mạnh: Bài học từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Israel cho thấy, thu hút nhân tài chỉ là bước đầu; giữ chân họ mới là thử thách lớn hơn. Điều này đòi hỏi chính sách khen thưởng, vinh danh, môi trường nghiên cứu ổn định và lâu dài. Chính sự bình đẳng và minh bạch trong sử dụng nhân lực mới tạo ra động lực để chuyên gia trong và ngoài nước gắn bó, cống hiến bền vững. “Giữ chân để họ cống hiến lâu dài là cả nghệ thuật” – ông Sỹ kết luận.