Nhớ “người thợ chữ” Tô Hoài
Nhân dịp kỉ niệm 105 năm Ngày sinh nhà văn Tô Hoài (27/9/1920 – 27/9/2025), văn giới và bạn đọc nhớ về một nhà văn chuyên nghiệp, người đã dành cả đời mình cho nghề viết. Dịp này, NXB Kim Đồng tái bản ba tiểu thuyết "Kẻ cướp bến Bỏi", "Mẹ mìn bố mìn" và "Những ngõ phố". Đây là những tác phẩm tiêu biểu cho khả năng quan sát sắc sảo tưởng tượng phong phú, bút pháp hiện thực và tình yêu sâu nặng của Tô Hoài dành cho Hà Nội.

Sách là cái cớ, đời viết mới là điều đáng nhớ
Ba tiểu thuyết "Kẻ cướp bến Bỏi", "Mẹ mìn bố mìn" và "Những ngõ phố" vừa được giới thiệu lại - một việc làm ý nghĩa để bạn đọc hôm nay đọc lại, nhìn lại. Nhưng thực tế, sách chỉ là cái cớ để chúng ta quay về với cả một sự nghiệp dày dặn: một hành trình sáng tạo kéo dài gần 70 năm, với khoảng 200 đầu sách ở nhiều thể loại khác nhau.
Từ những truyện viết trước 1945 đến những trang hồi ký cuối đời, dấu ấn Tô Hoài luôn là sự quan sát tỉ mỉ, lòng cảm thông sâu sắc và một ngôn ngữ gần gũi. "Dế Mèn phiêu lưu ký" (1941) không chỉ là một cuốn sách thiếu nhi, nó trở thành cuốn sách gối đầu giường của tuổi thơ; "Quê người", "O chuột" ghi lại làng quê Bắc Bộ; khi đến miền núi, ông viết "Truyện Tây Bắc", "Miền Tây"…
Tô Hoài không viết để minh họa cho ý thức hệ, cũng không tô vẽ anh hùng; ông viết bằng một thái độ gần như “thư ký” của hiện thực - thu thập, ghi chép, lưu giữ. Tôi có nhiều dịp gặp gỡ và trò chuyện với nhà văn Tô Hoài lúc ông còn sống, nhận ra một phẩm chất rất rõ: ông đi nhiều, đọc nhiều, và luôn ghi chép tỉ mỉ cả những chi tiết nhỏ bé - tiếng nói, cách ăn mặc, phong tục, tập quán ở từng vùng đất ông đi qua. Về sau này, khi tuổi cao, ít đi đây đi đó, thì ông đọc báo, tìm chi tiết, chữ nghĩa mới trên báo chí, và vẫn ghi chép lại cẩn thận để mở ra dùng khi cần… Những điều ấy làm nên một gia tài văn chương rất dày dặn, rất riêng…
Người đọc nhận ra ở ông một khả năng chưng cất: từ cái vụn vặt của đời thường, ông nặn ra những nhân vật có máu thịt, có số phận. Những con người do ông kể không được nâng cao quá mức nhưng cũng không bị đánh giá hời hợt; họ sống, gục, đứng dậy, hi vọng - như cuộc sống thật. Vì thế, khi Nhà xuất bản tái bản những tác phẩm tiêu biểu, đó là một mời gọi để cả thế hệ hôm nay đọc lại lịch sử, đọc lại đời sống qua một cây bút luôn đặt con người ở trung tâm.
“Viết lách cũng là một nghề như bao nghề khác”
Đời văn của Tô Hoài là một hành trình bền bỉ và chuyên nghiệp. Sinh thời, ông quan niệm: “Viết lách cũng là một nghề như bao nghề khác, không phải cái gì thiêng liêng, ghê gớm. Nhưng điều quan trọng, anh phải tinh thông và chăm chỉ tích lũy vốn kiến thức cho mình”.
Ông coi chữ nghĩa là vốn cần tích lũy bằng đọc, bằng đi, bằng ghi chép. Nhà văn Tô Hoài cũng từng bày tỏ: “Tôi cho rằng viết văn là phải “giàu có chữ nghĩa”. Muốn giàu có chữ nghĩa, người viết văn phải có thực tế cuộc sống, phải có học thuật. Tức là đọc nhiều, đi nhiều”.

Cách đọc của ông không phân biệt “thượng vàng hạ cám”. Khi cầm tờ báo trên tay, ông đọc từ mục chính đến mục phụ, từ mục to đến mục nhỏ. Thậm chí ông đọc cả những trang quảng cáo. Đó là thái độ của người hái chữ, nhặt từng mảnh ngôn ngữ về chưng cất thành kho tàng của riêng mình.
Ông thừa nhận nghề viết không thể dựa trên cảm hứng nhất thời: "Đã xác định làm nghề viết thì phải rèn luyện hàng ngày. Nghề viết là nghề vừa khó, vừa nặng nhọc". Đó là tuyên ngôn của một người suốt đời chuyên nghiệp, không ăn nhờ viết lách như nghề tay trái mà lấy viết làm nghề sống. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn từng kể khi quan sát nhà văn Tô Hoài: "Ngồi đâu, ông cũng viết được văn, kể cả trong những lúc hội họp".
Những thói quen giản dị ấy là nguồn gốc của một văn chương giàu chi tiết và nhân tình. Bộ ba tiểu thuyết vừa tái bản cũng cho thấy điều đó. “Kẻ cướp bến Bỏi” là câu chuyện diễn ra giữa thế kỉ XIX, tác phẩm xoay quanh cuộc khởi nghĩa Cao Bá Quát cùng bi kịch của những môn sinh trung nghĩa. Qua đó, Tô Hoài khắc họa khí phách anh hùng và khát vọng hạnh phúc của người dân trước triều đình phong kiến mục nát. Đây là cuốn tiểu thuyết đậm chất lịch sử, nơi văn chương gặp gỡ sử liệu, làm sống dậy một giai đoạn bi tráng trong quá khứ.
“Mẹ mìn bố mìn” đưa bạn đọc đến với Hà Nội giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX, tác phẩm phản ánh những đổi thay của làng quê và đô thị Bắc Bộ trong thời Pháp thuộc, chân dung những phận đời nghèo khó, bị đẩy vào vòng xoáy mưu sinh, phải vươn lên để sinh tồn bằng mọi cách... Dù nhiều cay đắng nhưng ở họ vẫn toát lên sự chân chất, mộc mạc và cả hy vọng vào một ngày mai tốt đẹp hơn.
Còn “Những ngõ phố” tái hiện đời sống người dân thành thị với bao ngổn ngang, vừa lam lũ vừa đầy khát vọng. Những phận đời lầm lũi nơi ngõ nhỏ trở thành biểu tượng cho sức sống bền bỉ, cho khát khao đổi thay để hòa nhập vào thời cuộc mới. Đây cũng là một trong những tác phẩm hiếm hoi phác họa diện mạo Hà Nội ngay sau chiến tranh.
Cuộc đời viết của ông là một bài học về sự kiên trì. Ta thấy rõ một điều: văn chương của Tô Hoài không chỉ là sáng tạo, mà còn là lao động. Và lao động ấy, bằng chính sức nặng của nó, làm cho chữ nghĩa trở nên bền vững trong lòng người đọc. Ông xứng đáng với biệt danh người “thợ chữ” tài hoa với bút lực dồi dào hiếm có…
Nhà văn Tô Hoài đã bộc bạch qua "Tự truyện” về việc ông đến với nghề văn: "Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba năm trước Cách mạng Tháng Tám 1945 mà tôi viết như chạy thi được 5 truyện dài, truyện vừa, 3 tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế Mèn thì mấy chục truyện, cái in, cái chưa in, vương vãi lung tung tôi không nhớ hết. Cũng chẳng có gì lạ. Viết để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc khỏe như vậy đấy”.
Nhà văn Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27/9/1920. Bút danh Tô Hoài của ông được đặt từ 2 địa danh Phủ Quốc Oai và vùng ven sông Tô Lịch, nơi Tô Hoài đã gắn bó cả tuổi thơ và những năm trai trẻ.
Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi 17 - 18. Tác phẩm đầu tay của ông là một truyện ngắn. Và những sáng tác đầu tay của Tô Hoài được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy.
Ông mất ngày 6/7/2014. Nhà văn Tô Hoài đã được nhận nhiều giải thưởng, nổi bật là Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - nghệ thuật năm 1996. Ông là Tổng Thư ký đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam (1957-1963).