Nhóm cơ quan nào có thẩm quyền giữ người trong trường hợp khẩn cấp?
Ngày 27/10, Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của 4 dự thảo: Luật Dẫn độ; Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; Luật Tương trợ tư pháp về hình sự; Luật Tương trợ tư pháp về dân sự.
Góp ý vào một nội dung của dự thảo Luật Dẫn độ, Đại biểu Vũ Huy Khánh (Đoàn TP Hồ Chí Minh) đề cập đến quy định tại Điều 33 về giữ người trong trường hợp khẩn cấp trước khi có yêu cầu chính thức về dẫn độ.
Bày tỏ quan điểm đồng tình với nội dung này trong báo cáo giải trình tiếp thu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, theo ông Khánh, việc này nhằm bảo đảm đồng bộ với quy định tại Điều 506A của Bộ luật Tố tụng hình sự được Quốc hội thông qua tại kỳ họp trước và phù hợp với tính chất của việc giữ người trong trường hợp này.

Dự thảo luật đã chia quy định về việc giữ người trong tình huống khẩn cấp thành hai nhóm. Ông Khánh cho rằng, trường hợp thứ nhất là giữ khi Việt Nam và nước đưa ra yêu cầu cùng là thành viên của điều ước song phương về dẫn độ. Trong trường hợp này, việc kiểm tra tính hợp lệ của yêu cầu là hết sức cần thiết. Khi bảo đảm được tính hợp lệ, Bộ Công an đề nghị cơ quan công an có thẩm quyền sẽ thực hiện việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Thời hạn giữ cũng như nội dung yêu cầu được thực hiện theo quy định của điều ước mà các bên đã ký kết.
Trường hợp thứ hai là việc giữ người khi Việt Nam và nước yêu cầu không có điều ước chung về dẫn độ. Thời hạn được chốt là 45 ngày. Nội dung yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Khoản 3 của dự thảo Điều 33. Đồng thời, Khoản 4 của Điều 33 giao cho Chính phủ quy định chi tiết điều này.
Cơ bản thống nhất với cách thể hiện và nội dung trên. Tuy nhiên để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với tính chất của hoạt động này, ông Khánh phân tích, thẩm quyền giữ người trong trường hợp khẩn cấp là vấn đề liên quan đến quyền con người. Để đáp ứng yêu cầu không để đối tượng bỏ trốn và thể hiện sự cam kết có trách nhiệm của Việt Nam trong các điều ước quốc tế và trong cộng đồng quốc tế, theo ông Khánh cần quy định có tính chất khái quát, có tính nguyên tắc, về những cơ quan nào?, nhóm cơ quan nào? có thẩm quyền giữ người trong trường hợp khẩn cấp.
“Trường hợp này là giữ không theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự và luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự. Cho nên không thể có thủ trưởng hay phó thủ trưởng ở đây. Tuy nhiên, cũng cần nêu nhóm những chức danh trong Công an nhân dân. Ví dụ: các Cục nghiệp vụ của Bộ Công an, Giám đốc Công an các tỉnh, thành phố, và có thể là Trưởng phòng nghiệp vụ của công an tỉnh cũng có thể thực hiện được quyền này. Nên có quy định có tính chất nguyên tắc như vậy và nên thiết kế thành một khoản cho rõ. Khi quy định thẩm quyền này cho các nhóm chức danh như vậy, cũng cần có cơ chế để giao quyền giữa cấp trưởng cho cấp phó để thực hiện. Cấp phó khi thực hiện thì phải chịu trách nhiệm hoàn toàn theo quy định pháp luật và người giao quyền cho mình”, ông Khánh nói và cho rằng, các quy định này là phù hợp với cách quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính tại Điều 123 mà Quốc hội vừa mới thông qua tại kỳ họp thứ 9. Khi quy định về các nhóm chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính cho Công an nhân dân, luật không nêu rõ chức danh cụ thể mà giao cho Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Công an quy định để bảo đảm tính linh hoạt.
Về nơi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, ông Khánh đánh giá, trong dự thảo hiện nay nơi giữ người trong trường hợp khẩn cấp trong trường hợp này là cơ sở lưu trú người nước ngoài chờ xuất cảnh theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo ông Khánh, quy định như vậy là đúng nhưng hơi cứng. Bởi vì cơ sở lưu trú cho người nước ngoài theo quy định pháp luật Việt Nam hiện nay chỉ có một số cơ sở được thành lập theo Nghị định số 142/2021/NĐ-CP của Chính phủ nhưng chỉ có ở một số khu vực chứ không phải có ở tất cả các địa phương trên toàn quốc.
Song lo ngại tình huống phát sinh yêu cầu giữ này có thể xảy ra ở bất cứ đâu và cần phải thực hiện ngay, và nếu quy định cứng như vậy sẽ khó trong quá trình áp dụng trên thực tế. Do đó ông Khánh đề nghị chỉ cần quy định là đối tượng này sẽ được giữ tại cơ sở lưu trú theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều này bao gồm cả cơ sở lưu trú theo quy định của Nghị định số 142 đã có, hoặc trong một số trường hợp khẩn cấp cần phải thực hiện ngay, có thể là cơ sở lưu trú khác. Cơ quan công an có trách nhiệm phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho những đối tượng này trong thời gian bị giữ, và nên tách thành một khoản và giao cho Bộ trưởng Bộ Công an quy định chi tiết.

Góp ý vào dự thảo Luật Tương trợ Tư pháp về Dân sự, Đại biểu Thạch Phước Bình (Đoàn Vĩnh Long) cho rằng, phạm vi điều chỉnh (Điều 1), hiện phạm vi chủ yếu giới hạn ở dân sự, kinh doanh, hôn nhân, lao động, nhưng thực tiễn phát sinh nhiều vụ việc phá sản, thi hành án dân sự, trọng tài thương mại, sở hữu trí tuệ – đều mang bản chất dân sự nhưng chưa được xác định rõ, gây khoảng trống pháp lý. Việt Nam đã tham gia Công ước New York 1958, La Hay 2019, nên cần mở rộng để phù hợp hội nhập.
Đại biểu kiến nghị bổ sung khoản mới tại Điều 1: “Luật này điều chỉnh hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự bao gồm cả các vụ việc phá sản, thi hành án dân sự, công nhận và cho thi hành bản án, phán quyết trọng tài nước ngoài, các yêu cầu cung cấp thông tin pháp luật và chứng cứ trong lĩnh vực thương mại, đầu tư quốc tế”.
Về nguyên tắc tương trợ tư pháp (Điều 5) đại biểu cho biết, Dự thảo kế thừa nguyên tắc cơ bản nhưng chưa quy định rõ bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư, quyền nhân thân, phụ nữ, trẻ em – theo Hiến pháp 2013 và Nghị định 13/2023/NĐ-CP. Các hoạt động thường liên quan thông tin cá nhân như hộ tịch, tài sản, thừa kế, nếu thiếu, dễ vi phạm quyền con người, trong khi các nước EU, Nhật Bản, Hàn Quốc đều coi đây là nguyên tắc bắt buộc. Đại biểu Bình kiến nghị bổ sung khoản 3 Điều 5: “Hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự phải bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền riêng tư, bảo vệ dữ liệu cá nhân; đặc biệt chú trọng bảo vệ phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và các nhóm yếu thế khác”.