Ngày 1/11, tại Hà Nội, Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam đã tổ chức Hội thảo “Tiêu chuẩn hoá thúc đẩy sản phẩm nông nghiệp hữu cơ”.
An toàn và đảm bảo sức khoẻ cho người sử dụng
Nông nghiệp hữu cơ (NNHC) là hệ thống canh tác đang ngày càng được thế giới quan tâm nhiều hơn. Tại nhiều quốc gia, tình hình an ninh lương thực đã được đảm bảo nhưng lại nảy sinh nhiều vấn đề về chất lượng nông sản và an toàn thực phẩm. Trong khi đó, phương thức canh tác hữu cơ hạn chế tối đa việc sử dụng hoá chất, trong khi các nguồn hữu cơ được tái sử dụng một cách triệt để. Do vậy, NNHC là một trong những hướng đi của nông nghiệp Việt Nam thời gian tới.
Nông sản sạch là đòi hỏi của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, tại Hội thảo, nhiều ý kiến cho rằng, sản xuất NNHC của Việt Nam còn mang tính tự phát, quy mô nhỏ lẻ, do đó khó có thể phát triển ổn định, bền vững. Theo ông Lê Thành Hưng (Viện Tiêu chuẩn và Chất lượng Việt Nam), hiện nay nhiều nông dân vẫn chưa muốn chuyển đổi sang sản xuất NNHC, nguyên nhân là do sản phẩm này chưa tạo sức hấp dẫn về thu nhập; thị trường tiêu thụ cũng chưa được cam kết, trong khi đó quy trình sản xuất khắt khe, mất thời gian dài để cải tạo đất, tạo nguồn nước tưới đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Đặc biệt, chi phí sản xuất cao mà năng suất lại thấp…
Dù vậy, hướng tới nền nông nghiệp sạch, phát triển bền vững, nhà quản lý đã và đang đưa ra nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát triển nền sản xuất NNHC. Trong đó phải kể đến Bộ tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) về NNHC.
Theo ông Hưng, các TCVN về NNHC chính là công cụ giúp đảm bảo an toàn và đảm bảo sức khoẻ cho người sử dụng, đồng thời bảo vệ môi trường. Hơn thế, TCVN sẽ tạo sự minh bạch, công khai, không phân biệt đối xử và không gây trở ngại đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại của doanh nghiệp (DN).
Đối với DN, Bộ tiêu chuẩn này giúp DN kiểm soát chất lượng, quản lý toàn diện, thiết lập được các quy trình sản xuất, các thủ tục liên quan cho mỗi quy trình. Và quan trọng hơn, các quy định về tiêu chuẩn quốc gia giúp DN kịp thời phát hiện những sản phẩm không đạt yêu cầu. Đồng thời giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, hướng tới đáp ứng và thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Người tiêu dùng rất chú trọng sản phẩm chất lượng
Đứng ở vị trí của người tiêu dùng, ông Trần Văn Học- Phó Chủ tịch Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng cho biết, người tiêu dùng Việt Nam đòi hỏi ngày càng cao đối với thực phẩm sản xuất an toàn, bảo vệ môi trường cũng như chất lượng sản phẩm. Bởi vậy, bản thân mỗi DN phải nỗ lực thúc đẩy các hành động tự nguyện như tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, quản lý rủi ro trong toàn bộ chuỗi sản xuất, từ trang trại đến bàn ăn cũng như tuân thủ các hoạt động và thực hành kinh doanh bền vững và đạo đức khác.
Số liệu khảo sát của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng đối với người dân tại hai thành phố Hà Nội và TPHCM cho biết, 88% người tiêu dùng cho rằng chứng nhận nguồn gốc, chất lượng là yếu tố quan trọng nhất khi họ đưa ra quyết định mua, tiêu dùng thực phẩm cho gia đình. Các yếu tố khác như sức khoẻ và dinh dưỡng là 84%, thương hiệu sản phẩm 72%, giá (phù hợp túi tiền) 70,7%. “Điều mà phần lớn người tiêu dùng Việt mong muốn hiện nay là ngày càng có nhiều sản phẩm hữu cơ phong phú hơn để có thể lựa chọn theo nhu cầu, thị hiếu của mình. Số ít người quan tâm đến giá cả, chủ yếu là chất lượng và độ đa dạng. Điều này cho thấy, người tiêu dùng càng ngày càng chú trọng sử dụng các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ vì mục tiêu bảo vệ sức khỏe, vì chất lượng sống”- ông Học nhận định.
Tại Hội thảo, hầu hết các ý kiến cho rằng, người tiêu dùng Việt ngày càng quan tâm hơn đến sản phẩm NNHC. Đây là xu hướng mà các DN thực phẩm cần nắm bắt để đưa ra thị trường ngày càng nhiều sản phẩm nông sản thực phẩm hữu cơ, sạch, an toàn. Đó cũng là điều kiện quan trọng để DN nâng sức cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Về phía người tiêu dùng, Phó Chủ tịch Vinatas cho rằng, cần phải nâng cao nhận thức, kỹ năng xử lý cho người dân liên quan đến việc xác định, lựa chọn và tiêu thụ sản phẩm thực phẩm an toàn để bảo vệ sức khoẻ của chính họ. “Người tiêu dùng cũng cần được phổ biến thông tin để có thể tìm kiếm thông tin liên quan, nhận biết và chấp nhận các tiêu chuẩn, đọc nhãn và logo, thông báo về những vấn đề liên quan đến an toàn thực phẩm khi có sự cố xảy ra”- ông Học nói.