Thời gian qua có nhiều dự án bất động sản (BĐS) thế chấp đất làm dự án tại ngân hàng nhưng vẫn tổ chức bán căn hộ theo hình thức đầu tư góp vốn, dẫn đến không thể bàn giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân.
Do vậy, nhiều ý kiến cho rằng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nghiên cứu, tham mưu Chính phủ quy định chặt chẽ, có biện pháp chế tài, công khai hồ sơ dự án vay ngân hàng của các chủ đầu tư.
Về vấn đề này, NHNN cho biết hiện nay, pháp luật đã có những quy định đầy đủ về các vấn đề này và người dân có thể phản ánh đến các đơn vị chức năng về các vi phạm nêu trên.
Cụ thể, đối với Sở Xây dựng phải chịu trách nhiệm về việc thông báo hoặc không có văn bản thông báo nhà ở đủ điều kiện được bán, cho thuê mua sau khi nhận được hồ sơ đề nghị của chủ đầu tư (Điểm b, khoản 2, Điều 19 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở).
Chủ đầu tư đã thế chấp nhà ở mà có nhu cầu huy động vốn góp để phân chia nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở hoặc có nhu cầu bán, cho thuê mua nhà ở đó thì phải giải chấp nhà ở này trước khi ký hợp đồng huy động vốn góp, hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở với khách hàng (Khoản 1, Điều 147, Luật Nhà ở 2014).
Đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS thì phải công khai trên trang thông tin điện tử của doanh nghiệp, tại trụ sở Ban Quản lý dự án (đối với các dự án đầu tư kinh doanh BĐS), tại sàn giao dịch BĐS (đối với trường hợp kinh doanh qua sàn giao dịch BĐS)... thông tin về việc thế chấp nhà, công trình xây dựng, dự án BĐS đưa vào kinh doanh (Khoản 1 Điều 4, Nghị định 02/2022/NĐ-CP ngày 6/1/2022 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh BĐS).
Như vậy, theo NHNN, quy định tại Luật Nhà ở và các Nghị định nêu trên của Chính phủ đã quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS phải công khai thông tin về việc thế chấp nhà, công trình xây dựng, dự án BĐS đưa vào kinh doanh (nếu có); Trách nhiệm của chủ đầu tư trong trường hợp bán nhà ở mà dự án nhà ở đó đã được thế chấp và trách nhiệm của Sở xây dựng trong việc xác nhận nhà ở đủ điều kiện được bán.
Trường hợp chủ đầu tư, tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS vi phạm các quy định nêu trên thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, và Điểm a, Khoản 3, Điều 58, Nghị định 16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 về xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng.
“Do đó, người mua nhà ở có thể liên hệ với Sở xây dựng nơi có dự án nhà ở để phản ánh về các vi phạm này (nếu có) của chủ đầu tư, tổ chức, cá nhân kinh doanh BĐS” - NHNN cho biết.
Đối với việc đăng ký biện pháp bảo đảm, thông tin về biện pháp bảo đảm đã đăng ký được lưu giữ trong số đăng ký cơ sở dữ liệu và Hệ thống dữ liệu quốc gia về biện pháp bảo đảm.
Cơ quan đăng ký có trách nhiệm cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm đã đăng ký theo yêu cầu của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình (Khoản 3, Điều 7 Nghị định 102/2017/NĐ-CP ngày 1/9/2017 về biện pháp đăng ký bảo đảm).
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất (Khoản 3, Điều 9, Nghị định 102/2017/NĐ-CP).
“Căn cứ quy định nêu trên, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm đã quy định trách nhiệm và thẩm quyền cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Theo đó, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai và Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường có thẩm quyền cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Người dân cũng có thể yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp các thông tin về việc dự án nhà ở có đang được thế chấp hay không” - NHNN thông tin.