Vụ nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh đoàn Yên Bái kêu oan: Cần làm rõ căn cứ cột tội?
Anh Đinh Tiến Hùng, nguyên Phó bí thư Thường trực Tỉnh đoàn Yên Bái nhiều năm liên tục kêu oan vì vướng vào Vụ án Lăng Đức Hân (vận chuyển, sử dụng trái phép thuốc nổ). Theo anh Hùng, dù 4 lần vụ án trả hồ sơ để bổ sung nhưng căn cứ cột tội anh vẫn chưa được làm rõ.
Vụ án tiếp tục bị Toà trả hồ sơ để điều tra bổ sung
Trao đổi với Đại Đoàn Kết, anh Đinh Tiến Hùng - nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh đoàn Yên Bái, bị can trong vụ án Lăng Đức Hân cho biết, đã tiếp tục gửi đơn kêu cứu lên Ban dân nguyện Quốc hội, Ban Nội chính Trung ương, Viện KSND Tối cao, và Tòa án nhân dân Tối cao.
Theo đó, anh đề nghị các cơ quan tố tụng cần làm sáng tỏ nhiều nội dung. Kể từ tháng 4/2022, khi bất ngờ nhận quyết định khởi tố bị can (“Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” theo Khoản 2 điều 227 BLHS), sau đó bị tạm đình chỉ chức vụ, sinh hoạt Đảng…, anh Hùng cho biết bị ảnh hưởng nghiêm trọng uy tín, danh dự, cuộc sống cá nhân và gia đình.
Trao đổi với phóng viên, đại diện Viện KSND tỉnh Yên Bái (sau viết tắt là Viện) cho biết: Toà án nhân dân tỉnh Yên Bái (sau viết tắt là Toà) đã trả hồ sơ, yêu cầu Viện điều tra, bổ sung. Sau đó, Viện đã xem xét các nội dung Toà yêu cầu, đã chuyển lại hồ sơ cho Toà.
Khi phóng viên hỏi việc Viện đã làm rõ những chứng cứ buộc tội mà Toà yêu cầu chưa? Vị này cho biết, diễn biến về vụ án phóng viên có thể ghi nhận tại phiên toà sắp tới để biết kết quả xét xử.
Nhận định về vụ án, Luật sư Nguyễn Văn Hùng, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội cho rằng: Xuyên suốt vụ án, cáo trạng, Đinh Tiến Hùng đã “bàn bạc trao đổi” với hai đối tượng này ở quán cà phê Đồng Tâm ngày 18/10/2020 trên đường Yên Ninh, TP Yên Bái, với nội dung "Đinh Tiến Hùng đi lo cơ chế, chi phí, quan hệ để giúp Tuấn, Hậu và các đồng phạm khai thác quặng trái phép". Và nữa, "sau khi khai thác được thì trừ chi phí, quan hệ..., Đinh Tiến Hùng được hưởng 1/3 lợi nhuận, còn Tuấn và Hậu được hưởng 2/3 lợi nhuận". CQĐT và VKS cho rằng đó là “chứng cứ” mấu chốt, bản chất để kết luận Đinh Tiến Hùng có vai trò chủ mưu.
Nguyên tắc chứng minh trong tố tụng hình sự có nghĩa là: Cơ quan tố tụng muốn buộc tội thì phải có bằng chứng, bị can bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh mình không phạm tội. Nhiều trường hợp vì bị hù dọa, bức bách khi bị tạm giam mà bị can, bị cáo có thể khai nhận tội, nhưng nếu ngoài lời khai này mà không còn chứng cứ nào khác thì tòa cũng không thể buộc tội được.
Vì vậy, đây là điểm ‘mờ’ chứa nhiều tình tiết chưa rõ nên cơ quan điều tra cần chứng minh: Chứ cứ chứng minh nội dung trao đổi giữa Nguyễn Trọng Tuấn, Nguyễn Văn Hậu với Đinh Tiến Hùng tại quán cà phê Đồng Tâm. Bị can Hùng có hành vi cụ thể nào thể hiện việc bàn bạc, chỉ đạo, thúc đẩy việc khai thác trái phép mỏ Núi Ngàng? Hành vi đó được thực hiện với cách thức, phương pháp nào? Thực hiện vào thời gian nào? Với ai?
Cũng theo luật sư Hùng, cần chứng minh rõ việc Đinh Tiến Hùng có hành vi sắp xếp, bố trí người, phương tiện, vật tư khai thác trái phép mỏ Núi Ngàng không? Có hành vi lợi dụng ảnh hưởng, quan hệ cá nhân để tác động, bao che việc khai thác trái phép? Nhận lợi ích từ việc khai thác trái phép mỏ?
Đặc biệt, cần làm rõ vai trò đồng phạm của Đinh Tiến Hùng trong vụ án (Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức theo Điều 17 BLHS).
Cùng quan điểm, nhìn nhận vụ án này, trao đổi với phóng viên, một nguyên lãnh đạo Viện KSND Tối cao cho rằng, những nội dung buộc tội bị can Đinh Tiến Hùng chưa đảm bảo "điều kiện đủ".
Cụ thể, theo vị này Kết luận điều tra cho rằng, Đinh Tiến Hùng có vai trò ‘người tổ chức, vậy với tội tổ chức để khai thác khoáng sản trái phép, thì bây giờ phải nói rõ các điều kiện được gọi là “người tổ chức được khai thác”. Tổ chức có nghĩa là phải triển khai, bàn bạc với nhau, hợp tác với nhau cùng làm, rồi phân công nhau trong các công việc, rồi lên kế hoạch…
“Còn ở đây một cuộc gặp đầu tiên vài chục phút ở quán cà phê Đồng Tâm cần phải làm rõ thêm nhiều bởi vì nếu như thế thì chưa gọi là tổ chức, bởi vì đây là gặp lần đầu tiên, thì mới có thể là thông tin với nhau về một việc gì đấy. Tôi đọc các Kết luận thì nó cũng chưa có phân công, chưa có "bày binh bố trận". Trước hết là chưa có một cái kế hoạch để "dàn trận chiến đấu". Có nghĩa là mình chưa thể nói đó là “tổ chức” được mà chỉ là đang “thăm dò, hỏi thăm” - vị này nói.
Cũng theo vị nguyên lãnh đạo Viện KSND Tối cao này, để đủ căn cứ cần chứng minh được:
Thứ nhất là cùng ý chí: Là có một nguyện vọng ý chí chung nhau sắp tới, ở đây có cái mỏ như thế bây giờ tôi khai thác, rồi là phân công nhau, tôi làm cái gì? ông làm cái gì? Thời gian ra làm sao? kế hoạch như thế nào? Bao giờ ta gặp gỡ nhau? Về suy nghĩ đi bao giờ ta gặp gỡ nhau ta bàn lại?... những cái này tôi chưa thấy được làm rõ, cần yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung, nếu cần thiết điều tra lại.
Thứ hai là cùng nhau xác định mục tiêu: Là trong vụ việc này, để đạt được cái mục tiêu ấy phải có được cái nội dung hoạt động thế nào? Và để đạt được nội dung hoạt động như thế phải có các phương thức hoạt động thế nào? Và cái cuối cùng là phân công nhau hoạt động để đạt được mục tiêu, thì đó mới là tổ chức.
Theo vị Nguyên lãnh đạo Viện KSND tối cao này, ở vụ án cần tuân thủ nghiêm ngặt Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Bởi theo vị này, kết luận điều tra đây mới có một cuộc trao đổi chóng vánh nên rất băn khoăn vụ án.
Nhiều vấn đề cần làm rõ
Hai luật sư của bị can Đinh Tiến Hùng (LS Đỗ Như Thành và LS Hoàng Trọng Hồng) cho rằng, trong quá trình tham gia tố tụng họ không được tiếp cận kịp thời và đầy đủ hồ sơ vụ án. Ngoài ra, hai luật sư cũng đã trình bày nhiều văn bản kiến nghị làm rõ một số vấn đề nhưng cơ quan tố tụng tỉnh Yên Bái chưa trả lời.
Theo một số luật sư, hoạt động điều tra của Công an tỉnh Yên Bái đã không làm tái hiện lại sự kiện pháp lý hình sự xảy ra trong quá khứ (mà được cho là Đinh Tiến Hùng có liên quan) bằng một hệ thống các chứng cứ chứng minh, được thu thập, sắp xếp và trình bày theo những thủ tục, trình tự chặt chẽ do pháp luật quy định.
Nội dung cuộc gặp giữa Hùng - Tuấn - Hậu tại quán cà phê Đồng Tâm, nội dung tin nhắn giữa các đối tượng, hành vi chuyển nhờ tiền điện..., nếu coi là chứng cứ xương sống, là phương tiện, là cái cốt lõi để chứng minh hành vi phạm tội, thì phải là cái có thật, có căn cứ khách quan. Nhưng những điều này đã chưa được làm rõ.
Theo Luật sư Trần Đình Triển, Trưởng văn phòng luật sư Vì Dân cho nhận định: Vụ án có nhiều dấu hiệu bị hình sự hóa. Theo đó, vụ án bắt nguồn từ việc hoạt động làm đường của Công ty Tuyên Huy lên mỏ chì - kẽm Núi Ngàng. Công ty Tuyên Huy được cấp phép “khai thác tận thu khoáng sản tại mỏ chì – kẽm Núi Ngàng thuộc xã Cảm Nhân, huyện Yên Bình từ năm 2003”. Tháng 10/2009, khi hết hạn, Tuyên Huy đã được gia hạn khai thác cho đến năm 2018.
Năm 2018, khi hết hạn Tuyên Huy lại lần thứ ba được UBND tỉnh Yên Bái chấp thuận tiếp tục khai thác mỏ chì – kẽm Núi Ngàng. Tuy nhiên, thủ tục còn phải chờ Bộ Tài Nguyên – Môi Trường cấp phép. Trong thời gian đó, UBND huyện Yên Bình đã chấp thuận cho Tuyên Huy được đầu tư “sửa chữa, nâng cấp đường vào mỏ Núi Ngàng” (để khi có phép khai thác thuận lợi hơn). Khi nổ mìn, phá đá trong khu mỏ của mình để làm đường, vì đá ở đây lẫn với quặng nên đơn vị thi công đã tách phần quặng ra khỏi đá (trị giá hơn 2 tỷ đồng). Số quặng này vẫn được giữ tại hiện trường chưa được đưa ra thị trường để trở thành hàng hóa.
Theo Luật sư Triển, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Yên Bái ban hành Kết luận điều tra đề nghị truy tố một số người theo khoản 2 Điều 227 tội “vi phạm quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên”, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tôi cho rằng có dấu hiệu không bình thường của vụ án này vì:
Một là: Công ty Tuyên Huy tận thu phế liệu bóc tách đất đá làm đường có chì kẽm để tránh hoang phí, là việc làm được Nhà nước khuyến khích, pháp luật bảo hộ. Mặt khác, Công ty Tuyên Huy đã được UBND tỉnh chấp thuận đầu tư và có trách nhiệm bảo quản, bảo vệ khoáng sản tại khu vực mỏ Núi Ngàng; số khoáng sản tận thu bóc tách từ đất đá làm đường, đang được Công ty Tuyên Huy quản lý, chờ khi có Giấy phép khai thác của Bộ Tài nguyên và Môi trường cấp mới tiêu thụ, đây cũng là việc làm đúng quyết định đầu tư, không trái pháp luật.
Hai là: Vụ việc nói trên được thực hiện do pháp nhân là Công ty TNHH Tuyên Huy đã được UBND tỉnh Yên Bái cho phép đầu tư và UBND huyện Yên Bình cho phép làm đường vào mỏ do vốn của doanh nghiệp tự đầu tư. Như vậy, giả sử có sai phạm thì phải xử lý vi phạm của pháp nhân (Công ty TNHH Tuyên Huy) theo Khoản 4, Điều 227 BLHS. Cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong vụ việc này là có căn cứ oan sai.
“Tôi đọc cả Kết luận điều tra vụ án, để đề nghị truy tố một cán bộ mà chỉ căn cứ lời khai của người “làm chứng”, ngoài ra không có một chứng cứ vật chất hoặc thể hiện chứng cứ khách quan nào. Nếu khởi tố, truy tố, xét xử bằng lời khai,… thì rất nguy hiểm, ai cũng có thể bị, nếu như chỉ cần tập hợp 1 số người dàn dựng kịch bản vu khống vụ việc và được khai thống nhất” – Luật sư Trần Đình Triển nhận định.
Không đủ chứng cứ, không buộc tội
Thực tế, thời gian gần đây, nhiều phiên Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao đã ra nhiều bản án tuyên vô tội cho bị cáo và cũng tuyên hủy một số bản án khác vì chứng cứ buộc tội chưa đầy đủ, quá trình thu thập chứng cứ có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
Trả lời báo chí, Luật sư Bùi Quang Nghiêm, Phó chủ nhiệm Đoàn luật sư TP HCM cho rằng: “Trong vụ án hình sự, các cơ quan tố tụng có nghĩa vụ chứng minh tội phạm bằng việc phải tìm ra được các chứng cứ, nếu không đủ chứng cứ thì không thể buộc tội bằng cảm tính. Niềm tin nội tâm của thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên chỉ nên dùng để định hướng điều tra chứ không được dùng để kết tội bị cáo nếu thiếu chứng cứ”. Trên thực tế khi liên kết các tình tiết của vụ án, người tiến hành tố tụng có thể suy đoán: chỉ có thể bị cáo A là người đã giết nạn nhân nhưng nếu không tìm được chứng cứ thì cơ quan tố tụng phải biết chịu thua. Đó chính là văn minh tư pháp!
Một thẩm phán Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại TP HCM nói: “Tòa án không thể hợp thức hóa các sai sót của cơ quan điều tra, viện kiểm sát bằng một bản án không thuyết phục. Từ khi thực hiện nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp (năm 2002-PV) đến nay, tòa án đã ra rất nhiều bản án tuyên bị cáo trắng án nếu cơ quan tố tụng không tìm được chứng cứ buộc tội”.
Theo các luật sư, việc tòa án mạnh dạn tuyên vô tội cho bị cáo khi xét thấy chứng cứ buộc tội của cơ quan điều tra, viện kiểm sát không đầy đủ sẽ tránh được tình trạng gây oan sai, tổn hại đến danh dự, nhân phẩm của người bị kết án.
Quay trở lại vụ anh Đinh Tiến Hùng, nguyên Phó bí thư Thường trực Tỉnh đoàn Yên Bái nhiều năm liên tục kêu oan vì vướng vào Vụ án Lăng Đức Hân (vận chuyển, sử dụng trái phép thuốc nổ). Dĩ nhiên ở khâu tố tụng cuối cùng (xét xử), để loại trừ oan sai thì nhất định Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái cần đặc biệt lưu ý nguyên tắc "suy đoán vô tội". Nghị quyết 49 về cải cách tư pháp đã nhấn mạnh việc xây dựng một nền tố tụng nhân văn, hướng thiện, đề cao nội dung, ý nghĩa giáo dục của hình phạt, thay vì trừng trị.
Ngày 14 tháng 8 tới, Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái mở phiên tòa sơ thẩm xét xử đối với các bị cáo liên quan đến Vụ án Lăng Đức Hân (vận chuyển, sử dụng trái phép thuốc nổ), anh Đinh Tiến Hùng bị Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái truy tố về tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên" theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 227 Bộ luật Hình sự.
Vụ nguyên Phó Bí thư thường trực Tỉnh đoàn Yên Bái kêu oan: Cần xem xét thấu đáo!
Nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh đoàn Yên Bái tiếp tục kêu oan
Ban Nội chính Trung ương vào cuộc vụ án 'Nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh đoàn Yên Bái kêu oan'
Vụ án Nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh đoàn Yên Bái kêu oan: Trả hồ sơ về Cơ quan điều tra lần 2
Xung quanh một bản kết luận điều tra ở Yên Bái – Bài 2: Có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp?