UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vừa có văn bản yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường khẩn trương tham mưu, đề xuất thu hồi 220 ha đất tại dự án Khu du lịch Vũng Tàu Paraside theo quy định.
Cụ thể, ông Lê Ngọc Khánh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vừa ký công văn hỏa tốc gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài nguyên và Môi trường về dự án Khu du lịch Vũng Tàu Paraside.
Theo công văn, UBND tỉnh giao Sở Tài nguyên và Môi trường khẩn trương tham mưu, đề xuất thu hồi 220 ha đất tại dự án Khu du lịch Vũng Tàu Paraside, phường An Ninh, TP Vũng Tàu theo quy định. Báo cáo UBND tỉnh trước ngày 15/12.
Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thuế thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tại thông báo 774 ngày 2/12/2021.
Theo tìm hiểu, dự án Khu du lịch Vũng Tàu Paradise được cấp phép vào ngày 23/4/1991 do Công ty liên doanh Vũng Tàu Paradise làm chủ đầu tư. Liên doanh này được thành lập từ sự kết hợp giữa đại diện phía Việt Nam là Công ty CP Dịch vụ du lịch quốc tế Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc UBND đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (nay là Công ty CP Dịch vụ du lịch quốc tế Vũng Tàu) với đối tác Đài Loan là Công ty Paradise Development and Investment.
Tổng mức đầu tư của dự án Vũng Tàu Paradise là 97,2 triệu USD, trong đó, phía Việt Nam góp 25% bằng quyền sử dụng đất của 220ha, 75% còn lại phía đối tác Đài Loan góp bằng tiền. Ngày 7/6/1993, Công ty Dịch vụ du lịch Quốc tế Vũng Tàu đã bàn giao trên thực địa 220 ha cho Công ty liên doanh để triển khai xây dựng công trình tại khu vực Bãi Sau (TP Vũng Tàu).
Năm 2016, dự án đã hết thời hạn theo giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, trên tổng diện tích đất được giao 220 ha, nhiều năm qua, nhà đầu tư chỉ đưa vào sử dụng khoảng 140 ha (phần diện tích đã đầu tư hạng mục sân golf và khu nhà rông), còn lại 80 ha (quy hoạch xây dựng khu khách sạn và khu văn hóa dân tộc) sử dụng không hiệu quả và không sử dụng trong thời gian dài, vi phạm quy định pháp luật về đất đai.
Đầu năm 2019, trước nguy cơ bị thu hồi dự án, Chủ tịch HĐQT Công ty liên doanh Vũng Tàu Paradise đã có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ đề nghị tạo điều kiện, chấp thuận cho công ty được gia hạn thêm thời gian hoạt động từ 25 năm lên 50 năm theo quy định hiện hành của Luật Đầu tư.
Liên doanh này cũng cam kết với Thủ tướng sẽ tiếp tục đầu tư thêm 20.000 tỷ đồng xây dựng và phát triển dự án hiện tại với quy mô lớn, đạt các tiêu chuẩn quốc tế; sẽ ký quỹ đầu tư thực hiện dự án khi được chấp thuận.
Tuy nhiên, tháng 9/2020, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc yêu cầu làm rõ một số nội dung liên quan đến việc không gia hạn cho chủ đầu tư dự án Khu du lịch Vùng Tàu Paradise.
Tại văn bản, giải thích lý do không gia hạn dự án, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho biết, dự án Khu du lịch Vũng Tàu Paradise khi hết thời hạn 25 năm theo giấy phép đầu tư (đến năm 2016); trong tổng diện tích đất được giao 220 ha chỉ đưa vào sử dụng khoảng 140 ha (phần diện tích đã đầu tư hạng mục sân golf và khu nhà rông), còn lại 80 ha (quy hoạch xây dựng khu khách sạn và khu văn hóa dân tộc) sử dụng không hiệu quả và không sử dụng trong thời gian dài, vi phạm quy định pháp luật về đất đai. Vấn đề này đã được Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường nêu tại Kết luận số 1640/KLTTr-BTNMT năm 2011.
Hơn nữa, trong quá trình xây dựng dự án, 2 bên công ty liên doanh không có sự thống nhất trong quản lý điều hành và giải quyết các vấn đề phát sinh như: bên nước ngoài chưa hoàn tất nghĩa vụ góp vốn theo quy định, không thống nhất về việc đăng ký lại doanh nghiệp và điều chỉnh thời hạn hoạt động của liên doanh.
Đến thời điểm gần hết thời hạn hoạt động (năm 2016 theo giấy phép đầu tư), hai bên liên doanh cũng chưa thống nhất đế đưa ra được quyết định chung về kế hoạch tiếp tục thực hiện dự án, các bên trong liên doanh đơn phương có các văn bản kiến nghị được cơ cấu lại doanh nghiệp (huy động các nhà đầu tư khác) để chứng minh năng lực xin thực hiện dự án thêm 50 năm.
Mặt khác, thời hạn hoạt động của Công ty liên doanh Vũng Tàu Paradise đã hết theo quy định tại giấy phép đầu tư, công ty không đăng ký lại hoạt động theo quy định Luật Đầu tư 2005, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2014, Luật Doanh nghiệp 2014.