'Sức ép' của rừng
Lâm nghiệp là ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù. Tuy nhiên, hiện nay ngành lâm nghiệp của chúng ta đang phải đương đầu với những thách thức như biến đổi khí hậu, môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi. Đáng lưu ý, đa phần người dân vùng rừng có mức sống thấp, tập quán canh tác lạc hậu, du canh du cư, dân số tăng nhanh... đã tạo ra sức ép lớn lên rừng tự nhiên.
Khai thác gỗ tại Tuyên Quang.
Từ phát triển chiều rộng sang chiều sâu
Lâm nghiệp là ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù, vừa sản xuất hàng hóa và dịch vụ từ rừng vừa có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Rừng và kinh tế rừng còn góp phần bảo tồn đa dạng sinh học, xóa đói, giảm nghèo, góp phần ổn định xã hội và an ninh quốc phòng. Thực hiện nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, trong thời gian qua, ngành lâm nghiệp đã có những thay đổi đáng kể.
Nâng cao giá trị thực hiện tái cơ cấu, trong giai đoạn vừa qua, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng góp phần phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Lâm nghiệp đã đưa độ che phủ của rừng liên tục tăng từ 32% năm 1998 lên 39,7% năm 2011; và 40,84% năm 2015. Sản xuất lâm nghiệp theo hướng nâng cao giá trị đã và đang trở thành một xu hướng.
Nhiều địa phương đã tích cực, chủ động triển khai công tác quản lý giống cây trồng lâm nghiệp, trồng rừng gỗ lớn theo hướng thâm canh, chuyển hóa rừng kinh doanh gỗ nhỏ sang gỗ lớn. Tỷ lệ diện tích rừng trồng từ nguồn giống có kiểm soát và chứng nhận nguồn gốc lô cây con tính đến thời gian này đã đạt 85%. Trong đó đã xây dựng nhiều mô hình chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang gỗ lớn, mô hình rừng trồng gỗ lớn, trồng rừng thâm canh gỗ lớn...
Bên cạnh việc thay đổi này, năng suất và chất lượng rừng được cải thiện đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng đồ gỗ và lâm sản liên tục tăng mạnh góp phần tạo việc làm, thu nhập cho hàng triệu lao động. Giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp tiếp tục tăng trưởng mạnh, đạt bình quân 6,57%/năm, vượt mục tiêu của Đề án Tái cơ cấu đề ra là 5,5 – 5,6%/năm. Giá trị xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản tăng trưởng mạnh, gấp hơn 2 lần trong vòng 5 năm, từ 3,035 tỷ USD/năm giai đoạn 2010 – 2012 lên 6,2 tỷ USD/năm.
Đặc biệt, trong bối cảnh thị trường quốc tế diễn biến phức tạp nhưng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản tiếp tục tăng. Bình quân mỗi năm cả nước trồng khoảng 230 nghìn ha rừng tập trung, trong đó 90% là rừng sản xuất. Trong năm 2016, giá trị xuất khẩu ước cả năm đạt 7,1 – 7,3 tỷ USD.
Công nhân Công ty Lâm nghiệp Đường 9 (Quảng Trị)
khai thác rừng trồng 7 tuổi. (Ảnh: T.L).
Thách thức
Tuy vậy, hiện nay ngành lâm nghiệp của chúng ta cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức đặt ra trong bối cảnh biến đổi khí hậu cũng như môi trường trong nước và quốc tế có nhiều thay đổi. Xu thế hội nhập mạnh mẽ kinh tế quốc tế, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được thực thi. Nhiều hiệp định như Hiệp định với Hàn quốc, Hiệp định thương mại tự do với EU… thị trường gỗ ngày càng yêu cầu chặt chẽ hơn về nguồn gốc gỗ hợp pháp…
Nhưng hiện nay, theo đánh giá của giới chuyên gia, các quy định của luật pháp về rừng chưa theo kịp đã đặt ra những đòi hỏi, đã tạo ra cạnh tranh quyết liệt hơn cho ngành lâm nghiệp. Bên cạnh đó, Ngành cũng phải đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đa phần người dân vùng rừng có mức sống thấp, tập quán canh tác lạc hậu, du canh du cư, dân số tăng nhanh... đã tạo ra sức ép lớn lên rừng tự nhiên.
Tình hình quản lý, bảo vệ rừng khó kiểm soát, một số điểm nóng kéo dài. Phá rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng, tranh chấp đất đai phức tạp, trọng điểm là khu vực Tây Nguyên. Tình trạng suy giảm diện tích rừng tự nhiên vẫn diễn ra ở khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên nhưng khôi phục, phát triển rừng hiện nay được coi là khó khăn, do không thu hút được nguồn vốn đầu tư, xa thị trường tiêu thụ, giao thông không thuận tiện...
Ở những vùng có khả năng phát triển trồng rừng sản xuất thì việc nâng cao giá trị, năng suất, chất lượng rừng chưa có đột phá, mới chỉ dừng lại ở việc xây dựng mô hình, chưa lan rộng, phổ biến vào quy trình sản xuất, kinh doanh. Vốn đầu tư, hỗ trợ của nhà nước cho công tác bảo vệ và phát triển rừng cũng như các nguồn vốn ODA không hoàn lại ngày càng thắt chặt, khó khăn hơn.
Để phát huy thế mạnh, ngăn ngừa những thách thức, tái cơ cấu rừng là giải pháp được đưa ra. Trong đó trọng tâm nhất vẫn là bố trí nguồn lực để thực hiện tốt Chương trình mục tiêu Phát triển Lâm nghiệp bền vững giai đoạn 2016 – 2020. Điều chỉnh cơ chế, chính sách hiện hành, cụ thể; rà soát, đề xuất chính sách khuyến khích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh lâm sản theo hướng nâng cao giá trị gia tăng qua chế biến. Bên cạnh đó cần phát huy chính sách phát triển rừng theo chuỗi, phát huy giá trị kinh tế của rừng đặc dụng, phòng hộ…
Các tỉnh phía bắc có tổng diện tích rừng tự nhiên là 10,3 triệu ha, chiếm 31% diện tích rừng toàn quốc, với 6,2 triệu ha đất quy hoạch cho lâm nghiệp. Tuy nhiên, kết quả trồng rừng thay thế của nhiều tỉnh còn thấp. Để hoàn thành mục tiêu trồng 80 nghìn ha rừng mới, chăm sóc 200 nghìn ha, trồng 10 triệu cây phân tán trong năm 2017; tăng độ che phủ rừng trong khu vực lên 51,3%; các tỉnh phía bắc thống nhất thực hiện đồng bộ tám giải pháp. Theo đó, tập trung phân cấp mạnh và rõ ràng trách nhiệm của chủ rừng và chính quyền các cấp; lực lượng kiểm lâm phải “bám rừng, bám dân”; đẩy mạnh chi trả dịch vụ môi trường rừng để tăng nguồn lực cho bảo vệ và phát triển rừng; tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào tạo giống, trồng, chăm sóc và chế biến nhằm nâng cao năng suất, giá trị rừng trồng để người dân có thể sống ổn định, có thu nhập khá từ nghề rừng. |