Tạo pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen trong nông nghiệp
Nhờ ứng dụng công nghệ gen, Việt Nam đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao. Trong ngành nông nghiệp, Việt Nam có 85% giống lúa mới, 89% gạo chất lượng cao, riêng trong 9 tháng năm nay, sản lượng lúa đạt 34,8 triệu tấn, một con số ấn tượng, vừa đảm bảo an ninh lương thực trong nước, vừa khẳng định vị thế Việt Nam trên thị trường lương thực quốc tế.
Công nghệ gen nâng tầm nông sản Việt
Ngày 18/10, tại Hà Nội, Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Diễn đàn “Chỉnh sửa gen trong nông nghiệp - Công nghệ chiến lược gắn với khung pháp lý”, dưới sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NNMT).
Phát biểu khai mạc diễn đàn, Thứ trưởng Bộ NNMT Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, công nghệ sinh học không phải câu chuyện mới mà được xác định từ lâu là một hướng đột phá chiến lược.

Lĩnh vực này bao gồm nhiều mảng quan trọng như thao tác gen, nuôi cấy mô - phôi và phát triển sinh vật có ích. Đặc biệt, công nghệ gen đã mang lại nhiều kết quả nổi bật, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo định hướng hữu cơ, tuần hoàn và đổi mới sáng tạo, phù hợp với Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 theo Quyết định số 569/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Nhờ ứng dụng công nghệ gen, Việt Nam đã tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất và chất lượng cao. Trong ngành nông nghiệp, Việt Nam có 85% giống lúa mới, 89% gạo chất lượng cao, riêng trong 9 tháng năm nay, sản lượng lúa đạt 34,8 triệu tấn, một con số ấn tượng, vừa đảm bảo an ninh lương thực trong nước, vừa khẳng định vị thế Việt Nam trên thị trường lương thực quốc tế. Trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học công nghệ hiện đóng góp khoảng 30% giá trị gia tăng toàn ngành. Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, nông nghiệp Việt Nam không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn góp phần ổn định nguồn cung cho thế giới. “Năm 2025, ngành nông nghiệp có thể đạt kỷ lục xuất khẩu khoảng 67-70 tỷ USD - một minh chứng cho hiệu quả của đổi mới khoa học công nghệ”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nói.
Sớm hoàn thiện về pháp lý cho công nghệ chỉnh sửa gen
Cũng theo Thứ trưởng Phùng Đức Tiến, trong các lĩnh vực công nghệ, công nghệ sinh học được xem là mũi nhọn với tiềm năng đột phá. Việt Nam đang ứng dụng nhiều hướng nghiên cứu như công nghệ chuyển gen, chỉ thị phân tử (marker), nuôi cấy mô, phôi và tế bào nhằm chọn tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng biến đổi khí hậu, nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm.

“Để thúc đẩy công nghệ chỉnh sửa gen, cần rà soát và hoàn thiện môi trường pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp (DN) và nhà khoa học. Việc kết hợp chính sách, đầu tư và pháp lý đồng bộ là cần thiết để nông nghiệp, nông sản Việt và công nghệ sinh học Việt Nam phát triển bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Chia sẻ tại diễn đàn, TS. Nguyễn Văn Long - Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ, cho biết, xu hướng toàn cầu trong quản lý cây trồng chỉnh sửa gen đang chuyển dịch theo hướng khuyến khích đổi mới, đảm bảo an toàn và minh bạch trong thương mại nông nghiệp. Nhiều quốc gia, đặc biệt ở châu Á, hoàn thiện khung pháp lý để tận dụng lợi ích công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Các nước áp dụng quan điểm cởi mở, coi công nghệ chỉnh sửa gen là công cụ quan trọng cho nông nghiệp bền vững. Đánh giá sản phẩm hiện tập trung vào đặc tính cây trồng cuối cùng, thay vì quy trình tạo ra, đặc biệt với các sản phẩm không chứa DNA ngoại lai.
Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chỉ đạo nhằm thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng và quản lý an toàn sinh vật biến đổi gen. Luật Đa dạng sinh học 2008 đưa ra khái niệm về sinh vật biến đổi gen và quy định khung pháp lý cơ bản cho quản lý GMO. Tuy nhiên, đối với công nghệ chỉnh sửa gen, hệ thống pháp lý vẫn chưa hoàn thiện.
Để tháo gỡ, Việt Nam đang xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Đa dạng sinh học 2008, cập nhật quy định về chỉnh sửa gen và xây dựng cơ chế quản lý, thương mại phù hợp với xu thế toàn cầu. Việc này đòi hỏi phối hợp giữa các bộ, ngành, nhà khoa học, doanh nghiệp và cam kết mạnh mẽ từ nhà hoạch định chính sách.
TS Nguyễn Duy Phương, Trưởng Bộ môn Bệnh học phân tử (Viện Di truyền Nông nghiệp), cũng cho rằng, công nghệ chỉnh sửa gen đã và đang mở ra hướng đi mới cho chọn giống cây trồng hiện đại, với tiềm năng rút ngắn thời gian và chi phí nghiên cứu so với công nghệ chuyển gen truyền thống.
Tại Việt Nam, nền tảng khoa học và nhân lực cho lĩnh vực này đã hình thành rõ nét. Nhiều đơn vị nghiên cứu như Viện Di truyền Nông nghiệp, Viện Sinh học Việt Nam và một số trường đại học đã tiếp cận, triển khai và bước đầu làm chủ công nghệ chỉnh sửa gen, đạt được những kết quả đáng khích lệ trong nghiên cứu cơ bản và ứng dụng thử nghiệm, tạo ra nhiều sản phẩm cây trồng mới sẵn sàng đưa vào khảo nghiệm phục vụ sản xuất. Tuy nhiên, ông Phương cho rằng công nghệ này hiện đang bị “trói buộc” bởi việc thiếu quy chế quản lý riêng, khiến nhiều kết quả nghiên cứu chưa thể thương mại hóa.
“Đảng và Chính phủ đã xác định chỉnh sửa gen là công nghệ chiến lược. Vấn đề bây giờ là chúng ta cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các nhà khoa học, DN ứng dụng và thương mại hóa kết quả nghiên cứu”, ông nhấn mạnh.