Cùng với quá trình công nghiệp hóa và gia tăng tiêu dùng, nhiều ngành sản xuất tại Việt Nam sử dụng các hóa chất nguy hại như chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) và thủy ngân…
Số liệu thống kê từ Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho thấy, mặc dù Việt Nam không trực tiếp sản xuất các chất POP như PBDE, PFOS, HBCDD, SCCP, MCCP hay PFOA, nhưng một lượng đáng kể vẫn được nhập khẩu và sử dụng trong quá trình sản xuất. Những loại hóa chất này thường được tìm thấy trong các sản phẩm như nhựa, keo dán, sơn, chất chống cháy, phụ gia cao su hoặc thiết bị điện tử. Năm 2022, tổng lượng nhựa PVC nhập khẩu vào Việt Nam đạt khoảng 737.000 tấn, riêng từ Trung Quốc là 220.000 tấn. Các chất POP như SCCP và MCCP có thể tồn tại trong các sản phẩm nhựa PVC này dưới dạng phụ gia và chưa được kiểm soát triệt để.
Theo các chuyên gia về môi trường, thủy ngân cũng đang hiện diện phổ biến trong các thiết bị y tế như nhiệt kế, huyết áp kế và bóng đèn huỳnh quang. Hiện hệ thống thu gom, phân loại và xử lý an toàn các sản phẩm chứa thủy ngân sau khi hết hạn sử dụng còn chưa được đồng bộ nên vẫn còn nguy cơ ô nhiễm. Bên cạnh đó, các quy định cũng như cơ chế khuyến khích để chuyển đổi sang một nền sản xuất không sử dụng và phát thải các chất POP còn chưa đạt yêu cầu, đặc biệt còn nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp (DN) vừa và nhỏ.
Trước thực tế này, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NNMT) Lê Công Thành cho hay, Bộ đang cùng Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) khởi động dự án “Giảm thiểu phát thải và tác động của các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) và thủy ngân thông qua quản lý vòng đời sản phẩm và nhãn sinh thái”. Dự án đặt mục tiêu giảm thiểu 35 tấn POP và 648kg thủy ngân thông qua kiểm soát vòng đời sản phẩm, phát triển nhãn sinh thái và cơ chế tài chính xanh. Đây là một trong những nỗ lực mới nhằm bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng, đồng thời thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững. Dự án được triển khai trong 4 năm với tổng kinh phí 33,1 triệu USD.
Theo Cục trưởng Cục Môi trường Hoàng Văn Thức, hiện Việt Nam chưa có đủ dữ liệu định lượng về hàm lượng POP trong nhiều vật liệu nhập khẩu như PVC, EVA, hay các chất kết dính. Nhiều sản phẩm tồn lưu từ trước năm 2016 vẫn tiềm ẩn nguy cơ phát thải POP cần được đánh giá, xử lý trong giai đoạn cuối vòng đời. Về mặt quản lý nhà nước, Bộ NNMT đã triển khai nhiều hoạt động kiểm soát POP và tiến tới không dùng, không sản xuất các chất POP. Tuy nhiên, các khái niệm như “quản lý vòng đời sản phẩm” hay “nhãn sinh thái” mới chủ yếu được tiếp cận bởi các chuyên gia và cán bộ kỹ thuật, chưa trở thành hành vi phổ biến trong tiêu dùng, sản xuất.
Bà Đặng Thùy Linh - chuyên gia Cục Môi trường, điều phối viên dự án cho biết, mục tiêu tổng thể của dự án này là bảo vệ sức khỏe con người và môi trường, đồng thời thúc đẩy mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững… Để đạt được các mục tiêu đề ra, dự án tập trung giảm thiểu sử dụng và phát thải các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy, bao gồm cả các chất POP mới, các chất POP phát sinh không chủ định (U-POP), cũng như thủy ngân trong toàn bộ vòng đời sản phẩm thuộc một số ngành công nghiệp tiêu biểu. Bên cạnh đó dự án sẽ triển khai các công cụ như nhãn sinh thái, cơ chế tài chính xanh, mua sắm xanh.
Đại diện Cục Môi trường cho rằng trong bối cảnh hiện nay, việc chứng nhận nhãn sinh thái Việt Nam được xem là một công cụ quan trọng nhằm thúc đẩy bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên thông qua hoạt động chứng nhận các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường. Ngoài những tiêu chí đã được ban hành, trong giai đoạn đến năm 2030, Việt Nam dự kiến bổ sung thêm các nhóm tiêu chí mới. Các nhóm này bao gồm lĩnh vực sản xuất bao bì, giấy và đồ dùng văn phòng; hóa mỹ phẩm; vật liệu xây dựng và gia dụng; cũng như các sản phẩm điện, điện tử, pin và ắc quy.
Liên quan tới giảm thiểu phát thải và tác động của các chất ô nhiễm POP và thủy ngân thông qua quản lý vòng đời sản phẩm và nhãn sinh thái, ông Patrick Haverman - Phó Trưởng Đại diện Thường trú của UNDP tại Việt Nam, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phối hợp liên ngành. Bởi POP, thủy ngân và các hóa chất nguy hại không chỉ xuất hiện trong một lĩnh vực mà liên quan đến nhiều cơ quan quản lý khác nhau.