Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) được ví như “tuyến đường cao tốc” đưa hàng hóa của Việt Nam vào thị trường châu Âu. Thế nhưng để tuyến đường đó thông thoáng, hàng hóa của chúng ta phải tuân thủ các tiêu chuẩn, quy định không mấy dễ dàng.
Xuất khẩu tăng tốc nhờ thực thi EVFTA
Sau một năm kể từ khi EVFTA chính thức thực thi (1/8/2020 - 1/8/2021), những kết quả mà chúng ta có được từ Hiệp định này rất đáng ghi nhận. Xuất khẩu hàng hóa 9 tháng đầu năm 2021 đạt 28,85 tỷ USD, tăng 11,7%. Tổng kim ngạch 2 chiều giữa Việt Nam và EU đạt 41,29 tỉ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2020. Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 hoàn hành suốt gần hai năm qua, một thời gian dài chuỗi cung ứng thương mại toàn cầu bị đứt gãy, thì những thành quả nói trên chính là minh chứng rõ nét nhất về tính hiệu quả của việc thực thi EVFTA.
Số liệu của Bộ Công Thương cho thấy, 9 tháng đầu năm 2021, Việt Nam xuất siêu sang EU hơn 11 tỷ USD. Rất nhiều mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam như dệt may, da giày, nông thủy sản... đã tận dụng ngay được các lợi thế của Hiệp định này.
Theo ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), nhờ có Hiệp định EVFTA, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU đã tăng trưởng theo hướng bền vững hơn, cả về chất và lượng, xuất - nhập khẩu đều đạt kết quả tích cực.
“Ngoài cơ hội về mở rộng, đa dạng hoá thị thị trường, Hiệp định EVFTA cũng đem lại cho Việt Nam cơ hội để cải cách thể chế, minh bạch hoá, cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh và chuyển đổi cơ cấu hàng hoá hướng tới xuất khẩu các mặt hàng giá trị gia tăng cao”, ông Thái nhấn mạnh.
Cần nỗ lực bứt phá
Những kết quả đạt được là rất rõ ràng, song bên cạnh đó, nhìn lại một năm thực thi EVFTA, giới chuyên gia kinh tế nhận định, cũng bộc lộ nhiều thách thức đòi hỏi các các doanh nghiệp (DN) Việt cần phải nỗ lực hơn nữa để mới có thể bứt phá trên con đường cao tốc này.
Theo bà Trịnh Thị Thu Hiền, Trưởng phòng Xuất xứ hàng hóa, Cục xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), với những gì các DN Việt Nam đã trải qua, bộc lộ rõ nhất là việc các DN vẫn đang gặp rất nhiều khúc mắc trong vấn đề về quy trình sản xuất, nguồn gốc xuất xứ và kiểm định chất lượng.
Bà Hiền cho hay, đối với quy chuẩn, yêu cầu về quy tắc, nguồn gốc xuất xứ, nhiều DN xuất khẩu của chúng ta đã vướng phải không ít tình huống éo le, dở khóc dở cười. Nói về xuất khẩu một lô hàng dệt may của các DN Việt sang thị trường châu Âu, bà Hiền lưu ý, cùng một mặt hàng, cùng nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra nhưng nếu hàng của ta sang thị trường Singapore yêu cầu đặt ra lại hoàn toàn khác với khi sang thị trường EU.
Cụ thể, với thị trường Singapore, số hàng hóa này đáp ứng xuất xứ Việt Nam bởi Singapore là một thành viên của ASEAN và trong khuôn khổ ASEAN thì quy tắc xuất xứ với dệt may chỉ cần cắt may thành quần áo thì sản phẩm quần áo cuối cùng đã được coi là có xuất xứ Việt Nam, điều đó cũng đồng nghĩa hàng của ta sang thị trường này sẽ được hưởng ưu đãi.
Nhưng cũng cùng loại sản phẩm từ đầu vào đến đầu ra, hàng hóa này sang EU lại được đặt ra yêu cầu xuất xứ từ vải trở đi, có nghĩa là quy tắc 2 công đoạn, công đoạn dệt vải và cắt may quần áo phải được thực hiện tại các nước thành viên của Hiệp định EVFTA để hưởng ưu đãi thuế quan trong khuôn khổ EVFTA.
Còn khi xuất sang Canada thì quy tắc xuất xứ lại theo khuôn khổ hiệp định CPTPP là từ sợi, có nghĩa là công đoạn se sợi, dệt thành vải và cắt may thành quần áo đều phải thực hiện tại các nước thành viên CPTPP thì mới được hưởng ưu đãi.
Từ đây mới xảy ra tình huống là sản phẩm may mặc từ cùng một nhà máy xuất khẩu đi, khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu (C/O) trong ASEAN thì các tổ chức của Bộ Công Thương vẫn cấp bình thường, nhưng khi cấp C/O đi EU thì không đáp ứng và lô hàng đó không đạt tiêu chí có xuất xứ Việt Nam. Như vậy, theo bà Hiền, cùng một mặt hàng do một nhà máy sản xuất, khi xuất đi các thị trường khác nhau thì quy tắc xuất xứ áp dụng là khác nhau.
Chính vì vậy, vị chuyên gia lưu ý, các DN trước khi xuất khẩu hàng hóa ra các thị trường, cần phải tìm hiểu kỹ thông tin về thị trường đó để có thể làm hồ sơ chứng minh xuất xứ cho phù hợp với thị trường đó.
Ngoài ra, các DN Việt còn gặp phải những tình huống trớ trêu khi “vấp” phải các quy định về quy tắc xuất xứ hay chỉ dẫn địa lý... Đây đều là những ‘điểm yếu” của các DN Việt lâu nay. Thực tế, quy tắc xuất xứ được đưa ra trong EVFTA tuy không mới nhưng khá phức tạp. Do đó, các DN cần phải hết sức lưu tâm.
Đặc biệt, chỉ dẫn địa lý - với mục đích nâng cao giá trị nông sản lẫn giá trị pháp lý, nhất là trong xuất khẩu cũng chưa được nhiều DN quan tâm và đăng ký bảo hộ ở các thị trường nước ngoài. Điều này đã gây ra những thiệt hại nhất định và nguy cơ rủi ro cao, thậm chí gặp những vấn đề về pháp lý khi ra thị trường quốc tế. Trong khi chỉ dẫn địa lý lại là yếu tố về sở hữu trí tuệ mà thị trường EU đặc biệt quan tâm.
Trên thực tế có nhiều sản phẩm nông sản của Việt Nam có chất lượng cao, hấp dẫn, được người tiêu dùng thế giới ưa chuộng nhưng do chưa quan tâm đến việc đăng ký chỉ dẫn địa lý hay bảo hộ thương hiệu, nên đã chịu nhiều thiệt thòi khi chưa đến được đúng các thị trường có nhu cầu.