Thế trận của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương
Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Mỹ đã điều thêm 1.200 lính đặc nhiệm tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương cùng nhiều công nghệ vũ khí cải tiến nhằm kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc - Báo cáo mới của mạng quân đội Sina có trụ sở tại Bắc Kinh ngày 22-6 cho biết.
Mỹ muốn duy trì hiện diện quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương để đảm bảo hòa bình trong khu vực (Nguồn: AP)
Báo cáo của mạng Sina xuất hiện trong thời điểm Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter có chuyến thăm một số quốc gia trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương kéo dài 10 ngày và tham dự Hội nghị thượng đỉnh An ninh châu Á lần thứ 14 ở Singapore nhằm khẳng định quyết tâm tạo bầu không khí tin cậy trong khu vực, hỗ trợ giải quyết các tranh chấp chủ quyền và đảm bảo sự ổn định an toàn.
Từ cuối tháng Tư, trước khi có chuyến công du dài ngày, ông Carter đã nói trong bài phát biểu tại ĐH Stanford rằng Mỹ muốn duy trì hiện diện quân sự ở châu Á-Thái Bình Dương để “đảm bảo hòa bình trong khu vực”. Theo mạng Sina, Trung Quốc rõ ràng đang là đối thủ chính của Mỹ trong cuộc đua giành tầm ảnh hưởng trong khu vực, dù cho Washington luôn theo đuổi xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với Bắc Kinh vì lợi ích của đôi bên.
Bộ chỉ huy lực lượng vũ trang của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương hiện nắm trong tay một lực lượng gồm cả hải, lục, không quân, lính thủy đánh bộ và đặc nhiệm. Về bộ binh, quân số có hơn 106.000 người, được trang bị trên 300 chiến đấu cơ và trực thăng, đồn trú tại Hawaii, Alaska, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Về không lực, lực lượng không quân ở khu vực Thái Bình Dương của Mỹ có xấp xỉ 29.000 binh sỹ và đội ngũ nhân viên. Trên biển, Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ gồm Hạm đội 3, đặc trách từ bờ biển phía Tây nước Mỹ tới Đường đổi ngày quốc tế. Hạm đội 5 bao phủ vùng biển từ Vịnh Ba Tư tới Tây Ấn Độ Dương, còn Hạm đội 7 đóng đại bản doanh tại Nhật, phụ trách khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Hạm đội 7 được trang bị 41 tàu ngầm tấn công, khoảng 200 tàu mặt nước và hơn 600 chiến đấu cơ, trong đó có 5 nhóm tàu sân bay chiến đấu và một nhóm đổ bộ chiến đấu. Tổng quân số của Hạm đội Thái Bình Dương là hơn 140.000 người.
Trong khi đó, khoảng 2/3 lính thủy đánh bộ Mỹ, khoảng 85.000 người, đồn trú ở châu Á-Thái Bình Dương, trong đó gồm lực lượng lính thủy đánh bộ viễn chinh số I tại California và lực lượng lính thủy đánh bộ viễn chinh số III đóng tại Nhật Bản. Thêm vào đó là 1.200 lính đặc nhiệm đồn trú ở khắp khu vực, tất cả đều được trang bị vũ khí tối tân nhất của Mỹ.
Theo các con số thống kê của Hải quân Mỹ, nước này hiện có khoảng 360.000 quan chức và nhân sự khác ở châu Á-Thái Bình Dương, và con số này dự kiến còn tăng khi Lầu Năm Góc đã lên kế hoạch đồn trú trên 60% số chiến hạm và phi cơ đến khu vực này vào năm 2020 cùng nhiều vũ khí và trang thiết bị quân sự hiện đại nhất của họ - gồm tên lửa chống hạm, tàu ngầm mới, phi cơ do thám và phi cơ cảnh báo sớm.
Theo mạng Sina, giới chuyên gia quân sự Mỹ đã xác nhận các rủi ro an ninh chính ở châu Á-Thái Bình Dương là sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng bố ở một số quốc gia Đông Nam Á, quá trình phát triển vũ khí hạt nhân ở Triều Tiên và tiềm năng hạt nhân của Trung Quốc. Đặc biệt, tầm ảnh hưởng cùng sức mạnh quân sự của Trung Quốc cũng được quan tâm như một mối đe dọa, khi tên lửa liên lục địa Đông Phong DF-5 của nước này có khả năng bắn hạ mục tiêu cách nó 13.000 km và nhiều loại tên lửa đạn đạo có khả năng mang đầu đạn hạt nhân.
Mạng Sina cho rằng Trung Quốc sẽ trở thành mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh của Mỹ nếu họ tiếp tục tăng cường sức mạnh quân sự với nhịp độ nhanh như hiện nay; thêm rằng một cuộc xung đột lớn trong khu vực không phải không có khả năng xảy ra, khi hơn một nửa các xung đột quân sự tại châu Á – Thái Bình Dương kể từ giữa thế kỷ 20 tới nay, cũng như hơn 80% các vụ xung đột 20 năm gần đây, có liên quan tới Trung Quốc.
Trong khi một số chuyên gia cho rằng Washington chỉ mong muốn Trung Quốc tham gia cấu trúc an ninh khu vực hiện tại, thì Bắc Kinh lại không muốn thực hiện điều đó, mạng Sina nói rõ. Thay vào đó, Trung Quốc sẽ tiếp tục con đường cũ, tức thực hiện các chiến lược của riêng họ, trong đó bao gồm cả việc phản đối sự hiện diện của Mỹ trong khu vực và tăng cường mối quan hệ quân sự với Nga.