Trong bối cảnh thời tiết chuyển mùa và dịch bệnh có xu hướng tăng, các cơ sở y tế ghi nhận số ca mắc thủy đậu đang gia tăng, không chỉ ở trẻ em mà cả người trưởng thành. Không ít người trẻ hoàn toàn khỏe mạnh đã rơi vào tình trạng nguy kịch do biến chứng nặng sau khi mắc bệnh.
Thủy đậu là một trong những bệnh truyền nhiễm phổ biến ở cả trẻ em và người lớn, đặc biệt có khả năng lây lan rất nhanh trong cộng đồng. Đây là bệnh nhiễm trùng cấp tính do virus Varicella-Zoster gây ra. Bệnh có thể xảy ra ở mọi độ tuổi, nhưng phổ biến nhất vẫn là trẻ em trong độ tuổi đi học.
Ở Việt Nam, thủy đậu có thể xảy ra quanh năm, tuy nhiên số lượng người mắc bệnh thường tăng cao vào khoảng từ tháng 2 đến tháng 6, đặc biệt là vào tháng 3 và tháng 4. Đây là thời điểm độ ẩm trong không khí tăng cao, tạo điều kiện thuận lợi để virus Varicella-Zoster dễ dàng phát tán và lây lan nhanh chóng trong cộng đồng. Thời gian qua, nhiều địa phương trên cả nước cũng đã thông tin về sự gia tăng của căn bệnh này.
Theo ghi nhận từ Trung tâm Y tế huyện Phù Ninh (Phú Thọ), thời gian gần đây, số bệnh nhân mắc thủy đậu tăng lên rõ rệt, trong đó có cả người lớn, phụ nữ mang thai và đặc biệt là trẻ em. Các biến chứng thường gặp gồm nhiễm khuẩn da, mô mềm, viêm phổi, viêm não, nhiễm trùng huyết và hội chứng sốc nhiễm độc. Phụ nữ mang thai khi mắc thủy đậu rất dễ gặp nguy cơ sảy thai hoặc sinh ra thai nhi bị dị tật bẩm sinh.
Trong khi đó, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Hải Dương cho biết đã ghi nhận chùm ca bệnh thủy đậu tại Trường Tiểu học xã An Phượng (huyện Thanh Hà). Tại đây có 13 trường hợp mắc bệnh, tất cả đều chưa được tiêm phòng. Ngay khi xuất hiện chùm ca bệnh, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh đã phối hợp Trung tâm Y tế huyện Thanh Hà và Trạm Y tế xã An Phượng triển khai các biện pháp phòng chống, kiểm soát bệnh lây lan.
Bệnh thủy đậu dù khá phổ biến và được xem là lành tính, tuy nhiên, trong bối cảnh số ca mắc gia tăng, các cơ sở y tế trên phạm vi cả nước cũng bắt đầu ghi nhận những trường hợp bệnh nhân nguy kịch, thậm chí là tử vong do những biến chứng của căn bệnh này, nạn nhân bao gồm cả trẻ em và người lớn.
Đơn cử, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương mới đây thông tin, hai nam giới trong độ tuổi lao động, không có bệnh nền, gặp biến chứng nặng do thủy đậu. Bất chấp việc cả hai bệnh nhân đều không có bệnh nền, sức khỏe bình thường và được đưa đến bệnh viện sớm, họ vẫn rơi vào tình trạng nguy kịch do diễn tiến nhanh của bệnh.
Trong khi đó, tại Bệnh viện Sản Nhi tỉnh Nghệ An, 2 trường hợp trẻ sơ sinh mắc bệnh thủy đậu nặng, trong đó một trẻ 22 ngày tuổi nhập viện trong tình trạng nguy kịch do biến chứng suy hô hấp và một trẻ mắc thủy đậu ngay sau khi chào đời đã được cứu chữa thành công.
Những trường hợp nói trên cho thấy, thủy đậu không phải là “bệnh trẻ con lành tính” như quan niệm của một bộ phận người dân.
Theo thống kê từ Bộ Y tế, từ đầu năm 2025 đến nay, nhiều địa phương trên cả nước ghi nhận sự gia tăng số ca mắc thủy đậu, đặc biệt là ở miền Bắc và khu vực miền Trung – nơi thời tiết giao mùa ẩm ướt, thuận lợi cho virus varicella-zoster (tác nhân gây bệnh) phát tán.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ước tính, gánh nặng của bệnh thủy đậu hàng năm là khoảng 140 triệu ca với 4,2 triệu trường hợp biến chứng nghiêm trọng cần phải nhập viện và 4.200 ca tử vong. Đối với người có sức khỏe bình thường, bệnh thủy đậu hầu như không dẫn đến bất kỳ vấn đề nghiêm trọng nào. Tuy nhiên, đối với những người có yếu tố nguy cơ cao như người lớn, người suy giảm miễn dịch có khả năng dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng.
Ở trẻ em, các trường hợp mắc thủy đậu phức tạp đã được báo cáo thường ghi nhận về hệ thần kinh và hệ hô hấp hơn với tỷ lệ nhập viện cao. Trẻ bị suy giảm miễn dịch, đặc biệt là trẻ mắc bệnh bạch cầu khi bị thủy đậu, quá trình chữa lành thường mất nhiều thời gian hơn, có thể gấp gần 3 lần, nguy cơ cao với biến chứng nội tạng xảy ra ở 30 – 50% các trường hợp nhiễm bệnh và 15% gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách.
Trong khi đó, zona thần kinh là bệnh “hậu thủy đậu”, thường bùng phát bệnh khi cơ thể đang trong trạng thái “báo động” về sức khỏe như tuổi tác cao, suy giảm miễn dịch, thường xuyên căng thẳng, sử dụng nhiều loại thuốc điều trị lâu dài như steroid prednisone, mắc các bệnh lý mãn tính hoặc ung thư, đang phải thực hiện các liệu pháp điều trị, tiền sử chấn thương về thần kinh hoặc phẫu thuật thần kinh kéo dài, làm suy giảm sức đề kháng.
BSCKI Nguyễn Tấn Sang - Khoa Thần kinh (Trung tâm Khoa học Thần kinh, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TPHCM) cho biết, bệnh thủy đậu và zona thần kinh tuy “hai mà một” vì đều do virus Varicella Zos-ter (VZV) gây bệnh. Virus này tấn công lần đầu tiên gây ra bệnh thủy đậu, sau khi hết bệnh virus sẽ không bị đào thải mà sẽ vào trạng thái “ngủ đông” tiềm ẩn sâu trong hạch rễ thần kinh, trú ngụ thầm lặng đợi thời điểm thuận lợi khi sức đề kháng ở người bệnh suy giảm, sẽ tái hoạt động tấn công dọc trên dây thần kinh, gây ra bệnh zona thần kinh.
Zona thần kinh thường bị hiểu lầm là bệnh tổn thương ngoài da, nhưng thực tế vẫn tiềm ẩn nguy cơ gây ra các biến chứng nghiêm trọng, phổ biến nhất là đau dây thần kinh kéo dài sau zona.
“Người dân không nên chủ quan khi mắc thủy đậu. Nếu thấy sốt cao kéo dài, ban mọc dày, kèm theo triệu chứng khó thở, lơ mơ, rối loạn ý thức, nôn nhiều… cần đưa người bệnh đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt. Các biến chứng có thể diễn tiến chỉ trong vài giờ, không chờ người bệnh tự hồi phục” - BS Quý cảnh báo.
Những đối tượng nguy cơ cao bao gồm: trẻ nhỏ dưới 5 tuổi, người lớn tuổi, phụ nữ mang thai, người có bệnh lý nền như đái tháo đường, xơ gan, suy giảm miễn dịch. Riêng với phụ nữ mang thai, thủy đậu có thể gây sảy thai, dị tật bẩm sinh hoặc nhiễm trùng sơ sinh nguy hiểm đến tính mạng.
Giải pháp hiệu quả nhất hiện nay là tiêm vaccine phòng thủy đậu. Vaccine có hiệu quả cao trong việc phòng ngừa bệnh hoặc giảm nhẹ triệu chứng nếu không may mắc bệnh. Trẻ từ 12 tháng tuổi trở lên đã có thể tiêm mũi đầu tiên, sau đó nhắc lại sau 4 - 6 tuần. Người lớn chưa từng mắc bệnh hoặc chưa tiêm phòng cũng nên chủ động tiêm để phòng ngừa, đặc biệt nếu sống trong khu vực có dịch.
Ngoài ra, giữ vệ sinh cá nhân, rửa tay thường xuyên, hạn chế tiếp xúc gần với người nghi mắc thủy đậu cũng là các biện pháp hữu hiệu. Khi trong gia đình có người mắc bệnh, cần thực hiện cách ly đúng quy định, tránh lây lan sang các thành viên khác.