Tinh gọn bộ máy, hạn chế chồng chéo khi không còn Hội đồng trường - Bài cuối: Giải pháp chiến lược
TS Lê Đông Phương, nguyên Giám đốc Trung tâm nghiên cứu giáo dục đại học, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam trao đổi với phóng viên Báo Đại đoàn kết xung quanh câu chuyện bỏ Hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập.

PV: Thưa ông, một trong những điểm mới của NQ71 là không tổ chức Hội đồng trường trong các cơ sở giáo dục công lập. Từ thực tiễn đã triển khai những năm qua, ông nhận định thế nào về chủ trương này?
TS Lê Đông Phương: Ở khối giáo dục mầm non và phổ thông công lập, tất cả các trường đều hoạt động dưới sự quản lý của UBND cấp xã, cấp tỉnh với chỉ một chương trình học, một tiến độ học tập. Đối với phổ thông, kết quả được đánh giá bằng bài thi thống nhất. Bên cạnh đó, ngoài hoạt động dạy học, các trường mầm non, phổ thông không có nhiều hoạt động khác nên vai trò của Hội đồng trường mờ nhạt.
Với khối giáo dục nghề nghiệp (GDNN) và giáo dục đại học (ĐH), mỗi cơ sở đào tạo có mục đích, tôn chỉ, sứ mệnh khác nhau và các ngành, nhóm ngành đào tạo khác nhau. Về lý thuyết, Hội đồng trường giúp trường ĐH tách bạch rõ ràng giữa vai trò giám sát và điều hành, từng bước tiếp cận với chuẩn quốc tế, là một cấu trúc quản trị tiên tiến. Tuy nhiên trong quá trình vận hành, Bộ GDĐT nhận định Hội đồng trường ở một số trường ĐH hoạt động còn yếu, mang tính hình thức, chưa thực hiện đúng, đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm theo quy định của luật. Điều này dẫn tới vai trò của Hội đồng trường bị coi nhẹ hoặc ở một số nơi xảy ra xung đột, mâu thuẫn giữa Hội đồng trường, chủ tịch Hội đồng trường với hiệu trưởng.
Tới đây, khi bỏ Hội đồng trường cũng đặt ra những thách thức mới khi bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục thay cho mô hình hiệu trưởng và chủ tịch Hội đồng trường như trước đây.
Thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT), trong năm 2024-2025, có 173 cơ sở giáo dục ĐH công lập (không tính cơ sở thuộc quân đội, công an) đã thành lập Hội đồng trường. Hiện nhiều ý kiến lo ngại về việc làm sao để dù thay đổi mô hình, quyền tự chủ thực chất vẫn phải được đảm bảo, thưa ông?
- Khi không còn một thiết chế như Hội đồng trường để làm đối trọng, phản biện và giám sát, câu hỏi đặt ra là cần xây dựng cơ chế giám sát và giải trình như thế nào để rõ ràng, hiệu quả, đảm bảo trách nhiệm của người đứng đầu và sự minh bạch trong vận hành.
Bỏ Hội đồng trường nhưng tôi cho rằng không thể bỏ mối liên kết với các doanh nghiệp và địa phương. Cần có các kênh tiếp nhận những phản hồi từ xã hội, từ đơn vị sử dụng lao động để cơ sở giáo dục đào tạo điều chỉnh hoạt động của mình cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn. Đồng thời mỗi trường cần đặt mình trong mối quan hệ với địa phương, trả lời câu hỏi mình đã có đóng góp gì cho địa phương nơi mình đang hoạt động hay không.
Trong thời gian tới cần khẩn trương thành lập Hội đồng Tư vấn cho nhà trường với sự tham gia của các thành phần trong đó có đại diện doanh nghiệp, địa phương, cựu sinh viên… Cũng cần phải xem lại vai trò của Hội đồng khoa học và đào tạo. Hiện ở nhiều trường, Hội đồng khoa học đào tạo chỉ có vài người, mang tính đại diện và ý kiến của họ gần như rất nhỏ bé trong các quyết định của nhà trường, đặc biệt là các quyết định về học thuật, về việc mở ngành, xét duyệt chương trình…
Để nâng cao chất lượng, Hội đồng khoa học đào tạo cần được mở rộng hơn để đảm bảo có đại diện cho tất cả các lĩnh vực học thuật. Hội đồng phải có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực học thuật, ví dụ họ giữ vai trò quan trọng trong quyết định có nên mở ngành mới hay không, các ngành cũ thì nên đóng hay điều chỉnh thế nào…
Một thay đổi vừa mới hình thành cho nên chúng ta chưa có hình dung rõ ràng. Tới đây các cơ quan quản lý nhà nước sẽ hướng dẫn các trường làm như thế nào. Tuy nhiên, trách nhiệm của Bộ GDĐT cũng như các cơ quan quản lý trực tiếp sẽ phải tăng cường khâu hậu kiểm, kiểm tra hàng năm cơ sở giáo dục đã làm như thế nào so với mục tiêu, sứ mệnh đặt ra.
Kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục ĐH đang có những điều chỉnh theo Dự thảo Thông tư thay thế Thông tư số 12/2017/TT-BGDĐT, trong đó một số điểm mới như thay đổi cách đánh giá các tiêu chuẩn, tiêu chí từ thang đánh giá 7 mức (tương ứng 7 điểm) sang 2 mức Đạt và Không đạt, bổ sung thêm cơ chế “Đạt có điều kiện”. Quan điểm của ông ra sao?
- Đánh giá theo kiểm định hiện nay Việt Nam đang thực hiện theo kiểu đo đếm. Chúng ta đưa ra nhiều tiêu chuẩn, tiêu chí và kiểm tra xem trường nào đạt, trường nào chưa. Thực chất đó là việc của cơ quan quản lý nhà nước. Những chỉ số đó cần phải được công khai minh bạch với xã hội để xã hội cùng giảm sát. Bên cạnh đó, chúng ta có chuẩn cơ sở giáo dục đại học, chuẩn chương trình. Những chuẩn này đã là một thước đo rồi, các trường hoặc các chương trình đào tạo phải đáp ứng được yêu cầu thì mới được phép tuyển sinh.
Đồng thời, quan trọng hơn đó là sau kiểm định, cơ sở giáo dục đào tạo đã làm gì để cải thiện so với lần trước, hướng đến phục vụ tốt hơn cho cộng đồng? Kiểm định cần được triển khai theo nghĩa là để hỗ trợ, đồng hành, khắc phục những điểm chưa đạt và có lộ trình để cơ sở giáo dục đào tạo hoàn thiện thay vì chỉ đơn thuần kiểm soát.
Trong bối cảnh sáp nhập các trường ĐH, mô hình quản trị mới cũng đặt ra thách thức mới. Theo đó, việc lựa chọn người đứng đầu cần có tiêu chí như thế nào để đảm bảo quyền tự chủ, nâng chất lượng giáo dục ĐH?
- Thời điểm này phần lớn các cơ sở giáo dục ĐH công lập đã hoàn thành Đại hội Đảng, bầu Bí thư Đảng ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng trường, nhưng vẫn còn vướng mắc trong việc kiện toàn nhân sự Bí thư cấp ủy đồng thời là người đứng đầu cơ sở giáo dục, do phải chờ hướng dẫn sau khi Luật sửa đổi Luật Giáo dục đại học được thông qua. Trong thời gian tới, Bộ GDĐT cần sớm ban hành quy định, hướng dẫn thực hiện chủ trương không tổ chức Hội đồng trường tại các cơ sở giáo dục công lập. Đồng thời cần sớm rà soát, sửa đổi đồng bộ các luật liên quan như Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp.. nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc cho mô hình quản trị mới.
Đồng thời, theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm đột phá phát triển GDĐT, công bố ngày 26/9, Bộ GDĐT dự kiến chỉ quản lý trực tiếp các đại học, trường đại học trọng điểm, còn lại đưa về các Bộ, ngành và địa phương. Khi đó, các bộ, ngành, địa phương cần có sự chỉ đạo sát sao để các trường duy trì hoạt động ổn định, phối hợp nghiên cứu và đề xuất mô hình tổ chức Đảng trong trường đại học, bảo đảm đồng bộ với quá trình sắp xếp mạng lưới.
Bộ GDĐT cũng cần sớm ban hành tiêu chuẩn cụ thể, điều kiện đối với vị trí người đứng đầu cơ sở giáo dục khi không còn Hội đồng trường để các trường sớm ổn định, triển khai.
Đôi khi chúng ta nhầm lẫn giữa người đứng đầu cơ sở giáo dục ĐH phải làm học thuật quá nhiều. Quan trọng hơn là việc lãnh đạo và quản lý của người đó như thế nào. Thực tiễn cho thấy không phải cứ làm thật tốt chuyên môn thì sẽ làm quản lý tốt. Trong một số trường hợp, chẳng hạn là các nhà khoa học ở vị trí lãnh đạo, quản lý nhà trường nhưng không được bồi dưỡng năng lực lãnh đạo dẫn đến sai lầm trong điều hành hoạt động. Vì vậy, cần phải cân đối giữa năng lực, uy tín khoa học và khả năng quản lý lãnh đạo để thực sự lựa chọn được người đứng đầu xứng đáng.
Trân trọng cảm ơn ông!
TS Lê Viết Khuyến, Phó chủ tịch Hiệp hội các trường ĐH, CĐ Việt Nam:
Chuẩn hóa năng lực lãnh đạo của người đứng đầu
Khi thực hiện mô hình Bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu, việc lựa chọn Bí thư cấp ủy đặc biệt quan trọng. Đó phải là người có uy tín cao về chuyên môn, học thuật – đó là điều kiện cần. Điều kiện thứ hai, người đó phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Cần đảm bảo các tiêu chí này thì sẽ hạn chế được các cảnh báo về việc chọn người đứng đầu thiếu nền tảng học thuật, thiên về hành chính, làm suy giảm tính tự chủ và sáng tạo trong nhà trường.