Vận hành hồ đập mùa mưa bão: Phải đảm bảo an sinh vùng hạ du
Diễn biến thất thường của thời tiết đặt ra yêu cầu đối với việc vận hành hồ bảo đảm an toàn hạ du ngày càng cấp thiết. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, công tác quản lý và vận hành đập, hồ chứa đang đứng trước áp lực mới khi mưa lũ cực đoan xảy ra thường xuyên hơn.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu gây mưa lũ cực đoan và quá trình đô thị hóa làm giảm không gian thoát lũ, yêu cầu vận hành hồ để bảo đảm an toàn hạ du ngày càng cấp thiết. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có quy chế phối hợp thống nhất giữa các địa phương trong cùng lưu vực.
Chỉ 30% hồ có ứng phó khẩn cấp
Trước những diễn biến thất thường của thời tiết theo các chuyên gia việc điều tiết, trữ nước tại các hồ, đập đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên đề cập về công tác quản lý và vận hành đập, hồ chứa nước hiện nay ông Phan Tiến An - Trưởng Phòng An toàn hồ đập và hồ chứa nước, Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi, (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đã thẳng thắn cho rằng, công tác quản lý và vận hành đập, hồ chứa đang đứng trước áp lực mới khi mưa lũ cực đoan xảy ra thường xuyên hơn.
Dẫn chứng, ông An cho biết, cả nước hiện có hơn 7.300 đập, hồ chứa thủy lợi, giữ vai trò đảm bảo nước tưới, cấp nước sinh hoạt và tạo nguồn cho nhiều ngành kinh tế. Nhờ sự quan tâm của các cấp, mùa mưa lũ 2025 tuy diễn biến dữ dội nhưng không xảy ra sự cố lớn, các hồ lớn vận hành tương đối hợp lý.
Thế nhưng, đằng sau đó là hàng loạt khó khăn kéo dài, đặc biệt ở nhóm hồ vừa và nhỏ do địa phương quản lý. Tỷ lệ thực hiện các yêu cầu bắt buộc về an toàn đập vẫn rất thấp chỉ 30% hồ có phương án ứng phó khẩn cấp, 9% được kiểm định an toàn và chỉ 19% lắp thiết bị quan trắc. Nhiều hồ chưa có quy trình vận hành hoặc mốc bảo vệ, dẫn đến nguy cơ mất an toàn khi mưa lũ đến bất ngờ.
“Thách thức lớn nhất hiện nay là thiếu dữ liệu kỹ thuật và hệ thống công nghệ đồng bộ. Cơ sở dữ liệu hồ chứa của Bộ được xây dựng từ năm 2016 nhưng mới khoảng 900 hồ có thông số đầy đủ. Hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn chuyên dùng còn thiếu và lạc hậu; nhiều hồ thiếu trạm mưa trên toàn lưu vực, số liệu quan trắc không ổn định” - ông An nhấn mạnh.
Ông Nguyễn Tùng Phong - Cục trưởng Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cũng cho rằng, những đợt mưa lũ dồn dập vừa qua đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được đánh giá lại trong cả công tác dự báo lẫn tổ chức vận hành liên hồ. Theo ông, quyết định mực nước trước lũ phải dựa trên cơ sở khoa học vì nó liên quan trực tiếp đến an toàn công trình, an toàn hạ du và nhu cầu tích nước cho sản xuất. Thực tế các trận lũ gần đây cho thấy khoảng dung tích phòng lũ đang không đủ dư địa như trước.
Nhấn mạnh vai trò của dự báo, ông Phong cho rằng, hiện nhiều đơn vị vẫn phụ thuộc vào các mô hình dự báo quốc tế, trong khi các nhà khoa học đã khuyến cáo cần có mô hình dự báo chuyên dụng cho từng lưu vực hồ chứa. Đây là điều kiện tiên quyết để nâng cao độ chính xác của dự báo trong bối cảnh biến đổi khí hậu làm cho mưa lũ khó lường hơn và dễ vượt ra ngoài các thông số thiết kế cũ.

Xây dựng cơ sở dữ liệu chung
Thực tế, các hồ chứa không chỉ là công trình thủy lợi mà còn giữ vai trò “lá chắn” bảo vệ dân cư, đảm bảo an ninh nguồn nước và góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nhiều công trình đã xây dựng từ lâu, hệ thống thông tin - dự báo chưa đồng bộ dẫn đến hiệu quả chưa cao. Theo TS Nguyễn Văn Mạnh, Trưởng phòng Khoa học Công nghệ (Viện Quy hoạch Thủy lợi), cả nước có khoảng 6.800 hồ chứa, nhưng chỉ 300 hồ chiếm tới 80% dung tích điều tiết và mới khoảng 200 hồ có cửa van chủ động. Trong khi đó, mưa lũ cực đoan giai đoạn 2024-2025 tiếp tục đặt ra sức ép lớn, buộc ngành thủy lợi phải cải thiện năng lực dự báo, giám sát và điều hành.
Đáng chú ý, theo TS Nguyễn Văn Mạnh, chất lượng dự báo vẫn phụ thuộc lớn vào dữ liệu mưa và kinh nghiệm của chuyên gia, khiến sai số về đỉnh lũ và thời gian lũ còn xảy ra ở một số trận cụ thể. Các mô hình hiện hành cũng được đánh giá là đã cũ, cần nâng cấp để bắt kịp tốc độ biến đổi khí hậu và yêu cầu vận hành ngày càng khắt khe.
Để khắc phục, TS Mạnh đề xuất xây dựng cơ sở dữ liệu lớn dùng chung cho toàn ngành theo tiêu chuẩn quốc tế, chuẩn hóa định danh công trình và quy trình chia sẻ dữ liệu từ trung ương đến địa phương. Ngành thủy lợi cần kết nối và chia sẻ dữ liệu đồng bộ với hệ thống khí tượng thủy văn quốc gia việc này giúp đảm bảo tất cả đơn vị vận hành đều có cùng một nguồn dữ liệu đầu vào, hạn chế sai số khi tính toán.
Trong khi đó, theo ông Nguyễn Tùng Phong, nhiệm vụ quan trọng của hồ chứa là phải được xác định rõ là đa mục tiêu. Đó là vừa cắt giảm lũ, vừa đảm bảo an toàn công trình, bảo vệ hạ du, đồng thời cấp nước cho dân sinh, sản xuất.
“Tổng dung tích của hơn 7.000 hồ thủy lợi chỉ khoảng 15,5 tỷ m³ trong khi nhiều hồ thủy điện có dung tích lớn gấp nhiều lần. Do đó, nếu hệ thống thủy điện tham gia tích cực hơn vào nhiệm vụ phòng chống lũ, hiệu quả bảo vệ hạ du sẽ được tăng lên đáng kể, nhất là trong các trận mưa lớn lịch sử” - ông Phong cho biết.
Để ứng phó với bão, lũ thất thường theo ông Nguyễn Tôn Quân -Phó Trưởng phòng Quản lý thiên tai cộng đồng và truyền thông (Cục Quản lý đê điều và phòng chống thiên tai), cần xem xét điều chỉnh các quy chuẩn xây dựng hạ tầng để nâng cao khả năng chống chịu trước thiên tai, nâng cao chất lượng dự báo, cảnh báo bằng việc mở rộng mạng lưới trạm đo mưa và cải thiện dự báo mưa lớn.
Bên cạnh hoàn thiện bản đồ phân vùng rủi ro thiên tai đến từng thôn, bản, công tác rà soát, sắp xếp và di dời người dân khỏi các khu vực có nguy cơ sạt lở, lũ quét, ngập sâu phải được triển khai quyết liệt, gắn với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng thuận thiên và bền vững hơn.
“Các tuyến đê, hồ chứa và hạ tầng phòng chống thiên tai cần được ưu tiên đầu tư, tu bổ, nâng cấp; cũng như điều chỉnh quy trình vận hành hồ chứa theo hướng dành đủ dung tích cắt lũ cho hạ du” - ông Quân nhấn mạnh.
