Thời gian qua, nhà quản lý đã nỗ lực xúc tiến việc đưa hàng Việt vào các hệ thống phân phối nước ngoài, với mục đích đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu, mở rộng quy mô thị trường cho hàng Việt.
Theo Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải, xuất khẩu vào hệ thống phân phối của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đã thực sự trở thành một kênh xuất khẩu hiệu quả, bền vững. Những năm gần đây, với sự hỗ trợ của các tập đoàn phân phối bán lẻ hàng đầu thế giới, các sản phẩm chất lượng cao của Việt Nam (nông sản, thực phẩm, đồ gia dụng, nội thất, dệt may...) đã tới tay hàng triệu người tiêu dùng thông qua hệ thống phân phối trên toàn thế giới.
Đơn cử như tại Tập đoàn Central Group, nếu như năm 2012 xuất khẩu của các doanh nghiệp (DN) trong nước qua hệ thống này mới chỉ đạt 21 triệu USD, tới năm 2019 đã lên tới 205 triệu USD (tăng gần 10 lần). Còn với hệ thống AEON, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam năm 2017 đạt 200 triệu USD, dự kiến đạt 500 triệu USD trong năm 2020.
Những con số nói trên cho thấy hiệu quả rõ rệt của việc đưa hàng Việt vào các hệ thống phân phối bán lẻ. Động thái này không chỉ thúc đẩy tiêu thụ hàng Việt, mà quan trọng hơn, tạo điều kiện, tiền đề để các DN luôn ý thức, chủ động nâng cao chất lượng sản phẩm, nỗ lực nâng sức cạnh tranh. Nói như ông Tạ Hoàng Linh - Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ Công thương),việc đưa hàng Việt trực tiếp thâm nhập vào mạng lưới bán lẻ nước ngoài không chỉ thúc đẩy kim ngạch hàng hóa xuất khẩu Việt Nam mà còn góp phần xây dựng một hệ thống các DN cung cấp hàng Việt bảo đảm chất lượng, nguồn gốc xuất xứ, đáp ứng những yêu cầu, tiêu chuẩn khắt khe, hướng tới sự phát triển bền vững.
Theo đại diện EuroCharm tại Việt Nam, khi hàng Việt đạt được các yêu cầu khắt khe nhất về tiêu chuẩn, chất lượng, về truy xuất nguồn gốc... sẽ dễ dàng tiếp cận với các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đang ký kết và thực thi. Đặc biệt là với một thị trường khó tính như châu Âu, đây là yếu tố có tính chất quyết định.
Thực tế, thời gian qua, để có thể cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại cùng loại, các DN đã chủ động nghiên cứu, nắm bắt thị hiếu của thị trường quốc tế một cách kịp thời, phát triển được các sản phẩm mới phù hợp với xu hướng tiêu dùng trong các chuỗi cung ứng, đảm bảo chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung ứng.
Nhiều DN thông qua các hệ thống phân phối đã đưa được các sản phẩm nông sản của mình vươn ra thị trường thế giới. Đơn cử như sản phẩm chuối tươi, theo chia sẻ của lãnh đạo công ty TNHH Huy Long An (tỉnh Long An), Võ Xuân Hòa chia sẻ, bằng việc thâm nhập vào mạng phân phối nước ngoài, công ty đã xuất khẩu sản phẩm chuối tươi ổn định tới thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia... với sản lượng ngày càng lớn.
Tuy nhiên, xuất khẩu qua kênh bán lẻ hiện đại là việc không dễ dàng. Tất cả những nhà phân phối ngoại “đóng chân” tại Việt Nam hiện nay đều thừa nhận, có những quy định khắt khe về kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi nhập hàng như: An toàn thực phẩm, xác định nguyên vật liệu đầu vào, quy trình sản xuất, tồn dư hóa chất nông nghiệp… Vì vậy, nhà cung cấp phải có quy trình sản xuất, quản lý tương ứng để đáp ứng yêu cầu của hệ thống siêu thị này.
Thực tế thì nhiều DN tại Việt Nam hiện nguồn lực không đủ mạnh.... bởi vậy, mẫu mã cũng như chất lượng ổn định của sản phẩm Việt còn rất hạn chế, do đó khó có thể cạnh tranh trong bối cảnh hiện nay. Do đó, trong hàng chục DN với nhiều chủng loại sản phẩm cũng chỉ chọn được một số mặt hàng có đủ điều kiện để đưa vào hệ thống phân phối nước ngoài. Nguyên nhân là phần lớn DN nhỏ và vừa, hộ sản xuất vẫn yếu về nguồn lực tài chính, công nghệ.
Chính bởi vậy, rất cần sự nỗ lực của nhà quản lý trong việc hỗ trợ DN nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu...Bên cạnh đó, nghiên cứu, xây dựng, đề xuất những chính sách phù hợp thúc đẩy các DN Việt Nam tham gia vào hình thức xuất khẩu trực tiếp trên nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới.