Báo Đại Đoàn Kết Giáo dục

Vị thế của nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Vị thế của nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News

Đã có 749 đề tài nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) được Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) tài trợ giai đoạn 2011 – 2025.

Đó là thông tin được đưa ra tại Hội thảo khoa học với chủ đề “Vai trò, vị thế của nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn khi bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc” diễn ra ngày 12/12 tại Hà Nội. Chương trình do Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) chủ trì phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Viện Hàn lâm Khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam tổ chức. 

PGS.TS Đoàn Minh Huấn, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phát biểu khai mạc.
PGS.TS Đoàn Minh Huấn, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phát biểu khai mạc.

Phát biểu khai mạc và đề dẫn hội thảo, PGS.TS Đoàn Minh Huấn, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Giám đốc Thường trực Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khẳng định vai trò đặc biệt của khoa học xã hội và nhân văn trong bối cảnh hiện nay. Đó là giúp con người hiểu chính mình, hiểu xã hội, hiểu động lực của phát triển và các quy luật vận động của đời sống.

Vì vậy, nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, không chỉ là dựng xây tri thức; nó còn là nền tảng để củng cố hệ giá trị, để định hình tương lai, để giữ gìn bản sắc và chủ động thích ứng với thế giới đang biến đổi.

Khẳng định nghiên cứu cơ bản là gốc rễ của tri thức khoa học, PGS.TS Đoàn Minh Huấn cho rằng không có nghiên cứu cơ bản, chúng ta không thể có nền tảng lý luận vững chắc để phát triển nghiên cứu ứng dụng hoặc hoạch định chính sách. Ông nêu bốn nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của nghiên cứu cơ bản trong bối cảnh mới:

Một là, làm sáng tỏ những quy luật mới của đời sống xã hội.

Hai là, xây dựng hệ giá trị và bản sắc trong thời đại toàn cầu hóa.

Ba là, cung cấp nền tảng lý luận cho chiến lược phát triển quốc gia.

Bốn là, góp phần nhân văn hóa phát triển công nghệ.

“Nghiên cứu cơ bản không chỉ là nền móng của tri thức mà còn là sức mạnh mềm của quốc gia. Đầu tư cho nghiên cứu cơ bản chính là đầu tư cho phát triển, cho bản sắc, cho trí tuệ và cho năng lực tự cường của dân tộc” - PGS.TS Đoàn Minh Huấn nhấn mạnh.

Ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Quỹ NAFOSTED phát biểu tại hội thảo.
Ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Quỹ NAFOSTED phát biểu tại hội thảo.

Ông Đào Ngọc Chiến, Giám đốc Quỹ NAFOSTED thông tin, riêng năm 2025, có 59 đề tài được tài trợ trong tổng số 200 hồ sơ đề nghị tài trợ trong lĩnh vực KHXH&NV được tài trợ năm 2025. Trong đó, có 6 đề tài phát triển, 53 đề tài nghiệm thu khám phá.

Một số thách thức trong tài trợ nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực này được ông Chiến chỉ ra gồm chất lượng và năng lực nghiên cứu chưa đồng đều, công bố quốc tế còn hạn chế về số lượng và chất lượng.

Bên cạnh đó, chưa gắn kết chặt chẽ với thực tiễn quản lý nhà nước. Nhiều nghiên cứu chưa chuyển hóa thành khuyến nghị chính sách cụ thể.

Trong thời gian tới, Quỹ NAFOSTED sẽ đẩy mạnh tài trợ nghiên cứu cơ bản chất lượng cao, ưu tiên hỗ trợ các hoạt động nâng cao năng lực KHCN. Đồng thời khuyến khích nghiên cứu liên ngành và đổi mới sáng tạo; tăng cường hội nhập quốc tế trong tài trợ và thực hiện nghiên cứu và đẩy mạnh chuyển đổi số, giảm thủ tục hành chính.

TS Đào Ngọc Báu tham luận tại hội thảo.
TS Đào Ngọc Báu tham luận tại hội thảo.

Trong bài tham luận về “Hội nhập quốc tế và sứ mệnh của KHXH&NV: Từ tiếp nhận tri thức đến đóng góp học thuyết Việt Nam”, TS Đào Ngọc Báu, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng KHXH&NV Việt Nam phải thực hiện bước chuyển đổi mang tính lịch sử từ vai trò thụ động sang chủ động, cụ thể là từ bản địa hóa tri thức tiến tới đóng góp học thuyết Việt Nam - một hệ thống lý luận khoa học có giá trị tham khảo quốc tế dựa trên thực tiễn đất nước.

Để hiện thực hóa sứ mệnh này, TS Đào Ngọc Báu đề xuất ba chiến lược trọng tâm gồm cải cách cơ chế đầu tư và đánh giá khoa học theo hướng khuyến khích sản xuất lý luận dài hạn; đổi mới đào tạo nhằm xây dựng thế hệ học giả có tư duy phê phán và khả năng xây dựng khung lý thuyết; đẩy mạnh quốc tế hóa công bố để quảng bá học thuyết Việt Nam ra thế giới.

Thu Hương