Đó là nhận định được đưa ra tại Hội thảo công bố nghiên cứu cảnh báo gia tăng bất bình đẳng giới giữa nam giới và phụ nữ, có tên gọi “Hướng tới bình đẳng giới tại Việt Nam để tăng trưởng bao trùm có lợi cho phụ nữ”, diễn ra tại Hà Nội ngày 3/6.
Quang cảnh cuộc hội thảo.
Hội thảo do Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women) phối hợp với Viện Nghiên cứu gia đình và giới thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam tổ chức.
Phát biểu khai mạc hội thảo, PGS. TS Đặng Nguyên Anh- Phó chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho biết: Bình đẳng giới là một vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm. Việt Nam đã có nỗ lực cải thiện khung pháp lý nhằm thực hiện bình đẳng giới như việc Quốc hội Việt Nam đã ban hành luật bình đẳng giới hay đưa bình đẳng giới lồng ghép vào các bộ luật và chính sách được ban hành. Đặc biệt, Việt Nam cũng là một trong những quốc gia trong khu vực mà phụ nữ tham gia Quốc hội chiếm tỷ lệ cao nhất… Tuy nhiên để đạt được bình đẳng giới thực sự cho phụ nữ thì các chính sách phải đảm bảo được tính bao trùm xã hội, trong đó đặc biệt chú ý đến phụ nữ và các nhóm dễ bị tổn thương.
Tương tự, bà Shoko Ishikawa, Trưởng Đại diện của UN Women Việt Nam nhận định: Việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào cuối tháng 12 năm 2015 và việc ký kết hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương vào cuối năm 2015 là những bước tiến xa hơn của Việt Nam trong quá trình hội nhập sâu rộng với quốc tế. Sự tham gia của Việt Nam trong những hiệp định thương mại mới này sẽ mở ra hàng loạt các cơ hội tăng trưởng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong các ngành sản xuất, dệt may và điện tử.
Tuy nhiên bà cho rằng, kết quả tăng trưởng trong việc làm cho đến nay ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào các công việc không đòi hỏi tay nghề. Các cơ hội về đào tạo, phát triển kỹ năng và thăng tiến trong những ngành nghề này rất hạn chế, đặc biệt đối với phụ nữ. “Nếu những lợi ích của tăng trưởng kinh tế được phân bổ không đều và quản lý không tốt, quá trình hội nhập có thể duy trì sự tách biệt về giới trên thị trường lao động, làm gia tăng tình trạng dễ bị tổn thương của lao động nữ và duy trì khoảng cách tiền lương giữa hai giới” – bà chia sẻ.
Đánh giá tại Hội thảo cũng khẳng định, nông nghiệp vẫn là nguồn sinh kế chính của phần lớn người dân, đặc biệt là phụ nữ ở khu vực Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên, nhưng đa số họ vẫn làm việc mà không được trả công trong các nông trại gia đình. Điều này khiến họ trở nên dễ bị tổn thương, do có rất ít cơ hội đảm bảo thu nhập và năng suất lao động. Giống như ở nhiều quốc gia khác, phụ nữ Việt Nam cũng dành nhiều thời gian hơn để làm công việc nội trợ không được trả công. So với nam giới, gánh nặng công việc không được trả công đã hạn chế khả năng tiếp cận của phụ nữ đến các cơ hội kinh tế và năng lực tham gia của họ vào các công việc được trả công, làm tăng mức độ stress của họ và có tác động đến quan hệ quyền lực trong gia đình.
“Mặc dù nhiều cơ hội công việc được mở ra cho lao động nữ trong những ngành xuất khẩu, song phụ nữ ít có cơ hội được đào tạo và thăng tiến hơn nam giới, và khoảng cách giới trong thu nhập đang giãn rộng dần theo thời gian” – báo cáo đưa ra lưu ý.