Kinh tế

Việt Nam trong hành trình Net Zero

An Bình 08/04/2025 07:09

Mục tiêu được Chính phủ đặt ra là đến năm 2040 Việt Nam sẽ loại bỏ nhiệt điện than và đến năm 2050 sẽ đạt phát thải carbon ròng bằng 0. Gần đây nhất, trong Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu, Việt Nam đã tuyên bố mục tiêu đến năm 2030 sẽ cắt giảm phát thải 43,5% với các hỗ trợ thiết thực và hiệu quả từ quốc tế, đặt mục tiêu phát thải theo từng ngành đến năm 2030 và 2050. Theo các chuyên gia, để thực hiện được mục tiêu này, phải khẩn trương giải bài toán chuyển dịch năng lượng và kinh tế xanh.

Hành động cần thiết

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất từ biến đổi khí hậu, với mực nước biển dâng cao đe dọa các vùng đồng bằng và hàng triệu người dân sinh sống. Điều này không chỉ gây tổn thất về kinh tế mà còn đe dọa an ninh lương thực và sự phát triển bền vững. Cam kết Net Zero là cần thiết để giảm thiểu tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh, bền vững. Cam kết này đồng thời giúp Việt Nam tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, nâng cao vị thế trên trường quốc tế.

Như vậy, việc Việt Nam hướng đến mục tiêu Net Zero không chỉ là trách nhiệm với cộng đồng quốc tế mà còn là hành động cần thiết để bảo vệ tương lai của chính mình trước các tác động khắc nghiệt của biến đổi khí hậu.

bài tr20
Để hướng đến mục tiêu Net Zero, vai trò của cộng đồng doanh nghiệp là rất lớn. Ảnh: Quang Vinh.

Hướng đến mục tiêu Net Zero, Việt Nam dự kiến sẽ thí điểm thị trường carbon từ năm 2025 và vận hành chính thức từ năm 2028. Điều này không chỉ giúp tăng thu nhập cho doanh nghiệp và người trồng rừng thông qua việc bán tín chỉ carbon mà còn góp phần bảo vệ môi trường và đạt được các mục tiêu về giảm phát thải khí nhà kính.

Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (năm 2022), Việt Nam có thể sẽ cần đầu tư thêm khoảng 368 tỷ USD cho đến năm 2040, tương đương 6,8% GDP mỗi năm khi theo đuổi lộ trình phát triển kết hợp khả năng chống chịu và phát thải ròng bằng “0”. Trong đó, hành trình khử carbon nhằm đáp ứng các cam kết quốc tế chiếm khoảng 30% nhu cầu nguồn lực. Tuy nhiên, khu vực công sẽ chỉ có thể đáp ứng khoảng 1/3 nguồn lực yêu cầu; trong khi thị trường tài chính xanh hiện mới ở giai đoạn đầu phát triển, nguồn lực huy động qua thị trường tài chính xanh ở mức rất nhỏ bé so với nhu cầu đặt ra.

Giới chuyên gia kinh tế nhận định, chuyển đổi xanh và giảm phát thải nhằm thực hiện cam kết Net Zero là một chặng đường dài. Để thực hiện thành công mục tiêu Net Zero và chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, chắc chắn cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các ban, bộ, ngành, cơ quan từ cấp trung ương tới địa phương. Trong đó, cộng đồng doanh nghiệp (DN) cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng.

Tất cả DN, dù ở quy mô nào, trong lĩnh vực nào cũng đều có cơ hội, vị thế, tiềm năng và hứa hẹn có nhiều đóng góp trong cuộc đua xanh toàn cầu phát triển bền vững hiện nay.

Cần sự nỗ lực của doanh nghiệp

Dệt may là một trong những ngành cung ứng hàng hóa nội địa và xuất khẩu với tỷ trọng lớn. Hướng đến mục tiêu Net Zero, nhiều DN dệt may cũng đang tập trung vào sản xuất xanh, trong đó việc đầu tư vào nâng cao công nghệ sản xuất, sử dụng các sản phẩm, nguyên liệu, dây truyền sản xuất thân thiện môi trường là vấn đề được các DN trong ngành hết sức quan tâm.

Trong bối cảnh thế giới đang dần hướng đến những sản phẩm thân thiện với môi trường, các nhà sản xuất dệt may Việt Nam cũng không ngừng cải tiến quy trình sản xuất, tích hợp các công nghệ xanh để nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường. Các sản phẩm vải organic, vải tái chế và các quy trình nhuộm không sử dụng hóa chất độc hại đang được nhiều doanh nghiệp trong ngành áp dụng, nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường quốc tế về sản phẩm xanh.

Công ty cổ phần sợi Thế Kỷ là một trong những DN ngành may hết sức chú trọng sử dụng nguyên liệu tái chế, đặc biệt là các loại sợi tái chế từ nhựa PET (Polyethylene Terephthalate). Bên cạnh đó, DN đã triển khai các giải pháp tiết kiệm năng lượng và giảm thiểu chất thải trong toàn bộ chuỗi cung ứng của mình. Công ty cũng đã phát triển các sản phẩm sợi bền vững, đáp ứng nhu cầu của các thị trường quốc tế về sản phẩm thân thiện với môi trường.

Tập đoàn Dệt May Phong Phú cũng là một trong những DN nổi bật trong việc sử dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất sản phẩm xanh. Phong Phú đã áp dụng các giải pháp công nghệ như nhuộm vải không cần nước và sử dụng năng lượng mặt trời tại một số nhà máy của mình. DN này cũng đã xây dựng các nhà máy xanh với hệ thống xử lý nước thải tiên tiến và cam kết giảm thiểu lượng khí thải CO2 từ các hoạt động sản xuất.

Theo đại diện Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), chuyển đổi xanh là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển của ngành trong giai đoạn tới. Hiệp hội cho rằng, trong bối cảnh toàn cầu đang ngày càng chú trọng đến bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, ngành dệt may Việt Nam cần đẩy mạnh áp dụng các tiêu chuẩn về sản xuất xanh, từ việc sử dụng nguyên liệu bền vững cho đến cải thiện quy trình sản xuất.

“Chuyển đổi xanh không chỉ là một xu hướng mà là yêu cầu bắt buộc của thị trường toàn cầu. Các DN dệt may Việt Nam cần đầu tư vào công nghệ mới, tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Đây cũng chính là cách để nâng cao giá trị sản phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu” - ông Vũ Đức Giang, Chủ tịch Vitas thông tin.

Có thể thấy, cộng đồng DN đã và đang ngày càng nhận thức tầm quan trọng của việc sản xuất xanh trong xu thế "xanh hóa" toàn cầu và hướng tới mục tiêu Net Zero. Theo các chuyên gia, để hướng đến mục tiêu này, rất cần sự chủ động của cộng đồng DN trong việc xanh hóa từ khâu sản xuất cho đến phân phối... tất cả đều phải tuân thủ các quy tắc để đảm bảo không làm phương hại đến môi trường. Theo Chủ tịch Vitas Vũ Đức Giang, việc chủ động xanh hóa không chỉ giúp các DN thích ứng với các chính sách mua hàng từ các nhà nhập khẩu, mà còn giúp nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Tuy nhiên, để hướng đến sản xuất xanh, nhiều DN cho biết, họ cũng đang đối diện với không ít thách thức như: Các cơ sở phát thải cao hoạt động nội địa sẽ phải thực hiện kiểm kê và bắt buộc thay đổi để đáp ứng các yêu cầu về hạn ngạch phát thải của Chính phủ trong tương lai. Các cơ sở phát thải cao có sản phẩm xuất khẩu như sắt, thép, xi măng, nhôm... phải thay đổi nếu muốn duy trì thị trường xuất khẩu trong tương lai. Do đó, các DN cần xác định việc giảm phát thải là bắt buộc trong tương lai, phải thay đổi công nghệ, phương thức quản lý, cách tiếp cận... Việc giảm phát thải tạo ra cơ hội mới cho một số DN nếu thay đổi để tồn tại và phát triển phù hợp với xu thế, DN biết nắm bắt cơ hội, có nguồn thu mới từ tài chính carbon cùng các nguồn tài chính xanh.

Để hóa giải rào cản, nhằm hướng đến mục tiêu Net Zero, giới chuyên gia cho rằng, rất cần sự phối hợp giữa Chính phủ và DN để thúc đẩy quá trình khử carbon ở tốc độ và quy mô cần thiết. Nhiều ý kiến đánh giá, mục tiêu thế giới và Việt Nam hướng đến 100% năng lượng tái tạo vào năm 2050 là hoàn toàn khả thi với sự tiên phong của các DN sẵn sàng chuyển đổi. Một yếu tố quan trọng trong cuộc đua Net Zero là cần sự đồng hành của các DN trong mọi lĩnh vực, từ việc tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo, giảm điện hóa thạch, đến tiết kiệm năng lượng.

Bộ Tài chính cho biết sẽ tích cực phối hợp với các bộ, ngành liên quan trong việc nghiên cứu các giải pháp để huy động nguồn lực tư nhân và các tổ chức quốc tế. Trong đó, phát triển thị trường tài chính xanh và thị trường carbon là những ưu tiên cần thực hiện với các trọng tâm như: Phát triển các công cụ tài chính xanh, tài chính bền vững; khuyến khích các địa phương và doanh nghiệp phát hành trái phiếu xanh...

Bộ Nông nghiệp và Môi trường cũng đang xây dựng dự thảo Đề án "Phát triển thị trường carbon tại Việt Nam". Theo đó, năm 2025 Việt Nam sẽ bắt đầu thí điểm và đến năm 2028 sẽ vận hành chính thức sàn giao dịch tín chỉ carbon. Và đã phê duyệt văn kiện dự án "Triển khai thực hiện thị trường carbon tại Việt Nam". Cục Biến đổi khí hậu là chủ dự án. Dự án được sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới với tổng mức đầu tư 5 triệu USD (đối ứng 71.851 USD do Bộ Nông nghiệp và Môi trường bố trí từ nguồn ngân sách nhà nước hàng năm), thời gian thực hiện từ năm 2024 đến năm 2028. Dự án hướng đến mục tiêu hỗ trợ Việt Nam phát triển thị trường carbon, thiết kế và triển khai trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon và hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính.

(0) Bình luận
Nổi bật
    Tin mới nhất
    Việt Nam trong hành trình Net Zero