Báo Đại Đoàn Kết Tài chính

Xu hướng lãi suất năm 2026: Tạo đà cho tăng trưởng

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Xu hướng lãi suất năm 2026: Tạo đà cho tăng trưởng

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News
Xu hướng lãi suất năm 2026: Tạo đà cho tăng trưởng
Nhiều ngân hàng đã tăng lãi suất huy động. Ảnh: Quang Vinh.

Càng về cuối năm, làn sóng tăng lãi suất huy động ngày càng nóng lên. Giới chuyên gia đánh giá, lãi suất có thể tiếp tục nhích lên trong thời gian tới, song biên độ tăng sẽ không lớn và vẫn nằm trong ngưỡng hợp lý, đủ để giữ ổn định thị trường tiền tệ mà không làm gián đoạn đà phục hồi của sản xuất, kinh doanh.

Năm 2026, giới chuyên gia nhận định, xu hướng lãi suất thế giới sẽ không biến động quá lớn nhưng mặt bằng lãi suất ở Việt Nam có một số điểm cần lưu ý. 

Ngân hàng đang chịu áp lực thanh khoản

Từ thời điểm cuối tháng 11 của năm 2025 đến nay, lãi suất huy động không còn đứng yên. Theo TS Huỳnh Trung Minh, chuyên gia tài chính - ngân hàng, mặt bằng lãi suất huy động đã tăng khoảng 0,4-0,6% so với đầu năm, cao hơn mức công bố chính thức (0,2-0,5%). Hiện nay, các ngân hàng nhỏ và trung bình đã bắt đầu đưa ra mức lãi suất từ 6,4-6,7%/năm cho các kỳ hạn dài (18-36 tháng) thông qua kênh online hoặc các hình thức quà tặng đi kèm.

Càng về cuối năm, làn sóng tăng lãi suất huy động ngày càng nóng lên, đặc biệt sau sự vào cuộc của cả 4 ngân hàng thương mại Nhà nước gồm: Vietcombank, VietinBank, Agribank, BIDV. Tính từ đầu tháng 12 đến nay, đã có tới khoảng 25 ngân hàng tăng lãi suất huy động, bao gồm Techcombank, MB, NCB, BVBank, Saigonbank, ACB, Bac A Bank, OCB, KienlongBank, Sacombank, SHB, PGBank, VIB, Vikki Bank, VCBNeo, BIDV, VPBank, PVCombank, ABBank, LPBank, BaoViet Bank, Agribank, Vietcombank, VietinBank, SeABank. 

Trong số các ngân hàng này đã có nhiều điều chỉnh biểu lãi suất tăng 2 - 3 lần trong tháng. NCB, Techcombank, OCB, MB, ACB, Saigonbank, Sacombank, PGBank, VietinBank đã có hai lần điều chỉnh lãi suất. Riêng VPBank đã tăng lãi suất lần thứ ba trong tháng. Ngay như ông lớn VietinBank cũng điều chỉnh tăng lãi suất huy động trực tuyến lần thứ hai trong tháng 12. Đáng chú ý, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 12 tháng tại ngân hàng này đã vượt mốc 5%/năm lần đầu tiên sau gần hai năm.

Có nhiều áp lực làm gia tăng lãi suất huy động, trong đó có áp lực đến từ huy động vốn. Hiện nay đang có sự lệch pha tăng trưởng khi tín dụng tăng nhanh hơn huy động vốn. Theo ước tính sơ bộ đến cuối tháng 11, tăng trưởng tín dụng toàn ngành khoảng 16,6% còn tốc độ huy động vốn khoẳng 13,5%. Điều này khiến thanh khoản hệ thống không còn dồi dào như giai đoạn trước, các ngân hàng buộc phải tăng lãi suất để hút tiền, đảm bảo an toàn thanh khoản và có nguồn để tiếp tục cho vay. Thông thường, nhu cầu vốn của doanh nghiệp và người dân thường tăng vọt vào giai đoạn cuối năm. Ngoài ra lãi suất  huy động buộc phải thay đổi khi có sự cạnh tranh từ các kênh đầu tư khác. Dòng tiền trong dân đang bị thu hút bởi 5 kênh hấp dẫn, gồm: Bất động sản, chứng khoán, vàng, tài sản số và khởi nghiệp. Thực tế năm 2025 kênh đầu tư vàng đã tạo sóng rất lớn, giá vàng trong 1 năm tăng hơn 60%, nhiều người dân cũng đã sốt ruột với vàng, thậm chí rút tiền gửi tiết kiệm để mua vàng tích lũy.

Làn sóng tăng lãi suất huy động. 	Ảnh: Minh Phương.
Làn sóng tăng lãi suất huy động. Ảnh: Minh Phương.

Mặt bằng lãi suất là vấn đề cần lưu ý

Năm kinh tế 2026 đã cận kề, vấn đề tiền tệ năm 2025 vẫn được vắt sang năm 2026. Ông Trần Chí Phúc - Tổng giám đốc Công ty cổ phần Quản lý quỹ đầy tư SGI  đưa ra quan điểm năm 2026, xu hướng lãi suất thế giới sẽ không biến động quá lớn nhưng mặt bằng lãi suất ở Việt Nam mới là vấn đề chúng ta cần lưu ý. Kinh tế Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào tín dụng. Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy, chu kỳ kinh tế và chu kỳ tín dụng liên quan chặt chẽ với nhau. Hiện nay, tỷ lệ tín dụng/GDP lẫn tỷ lệ dư nợ cho vay/huy động (LDR) của các ngân hàng đều cao kỷ lục, cho thấy cả hệ thống ngân hàng lẫn nền kinh tế đều đã đi đến cuối giai đoạn bùng nổ tín dụng” - ông Phúc nhận định.

Theo ông Phúc, tỷ lệ tín dụng/GDP vào năm 2000 chỉ khoảng 40%. Con số này tăng vọt lên 110% đến cuối năm 2010 thì hệ thống ngân hàng xảy ra khủng hoảng. Ngành ngân hàng sau đó phải mất 4-5 năm tái cơ cấu hệ thống sau đó tín dụng mới tăng trở lại.

Tuy nhiên, từ đó đến nay, tỷ lệ này vẫn tiếp tục tăng cao và đến cuối năm nay có thể đạt 140-145% GDP. Đây là tỷ lệ rất cao với nền kinh tế đang phát triển như ở Việt Nam, liên tục bị các tổ chức quốc tế cảnh báo. Tỷ lệ này ở các nước trong khu vực chỉ 60-80% GDP.  

Tương tự, tính đến cuối quý III/2025, tỷ lệ LDR của các ngân hàng Việt đã lên tới 110%, tức các ngân hàng huy động được 100 đồng thì đã cho vay tới 110 đồng. Đây là những lý do khiến Chính phủ muốn hạ lãi suất để hỗ trợ tăng trưởng nhưng mặt bằng lãi suất hai tháng vừa qua vẫn tăng mạnh.

“Chúng ta đã có thời kỳ tiền rẻ, nhưng chúng ta đã sử dụng hết dư địa đó rồi. Năm 2026 sẽ bước vào thời kỳ mới và lãi suất sẽ là vấn đề đáng chú ý nhất” - ông Phúc cảnh báo.

Còn ông Trần Ngọc Báu - Giám đốc điều hành CTCP Dữ liệu và Công nghệ tài chính WiGroup cũng cho rằng, lãi suất sẽ không còn giảm được nữa. Đặc biệt, lãi suất cho vay sẽ phải tăng theo vì NIM (biên lợi nhuận ròng- PV) ngân hàng hiện nay đang rất mỏng, vì vậy các ngân hàng không thể “ghìm” lãi suất cho vay như trước được nữa. Dù vậy, theo chuyên gia này, không có cơ sở để lãi suất tăng cao thời gian tới. “Lãi suất sẽ còn tăng dài hơi nhưng không tăng mạnh, tăng sốc như năm 2022. Nói chung, đợt tăng lãi suất này đúng ra là căn chỉnh cho hợp lý, làm lành mạnh thị trường”- ông Báu nhận định.  

Tầm quan trọng của sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ

Giới chuyên gia cũng đưa ra phân tích, một yếu tố then chốt khác tác động đến lãi suất năm 2026 là lạm phát, dự báo khó có thể thấp hơn mức 5%. Đồng thời, việc Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ hết hiệu lực vào quý II/2026 sẽ tạo áp lực lớn lên nợ xấu. Khi rủi ro tăng cao, các ngân hàng sẽ buộc phải điều chỉnh lãi suất để bảo vệ NIM vốn đã bị thu hẹp đáng kể trong suốt năm 2024 và 2025.

Nhìn lại các chu kỳ kinh tế trong 30 năm qua (như 1997, 2008, 2011, 2022), xu hướng tăng lãi suất thường diễn ra từ từ nhưng bền bỉ. Nhiều khả năng mức lãi suất cho vay từ 7,5-8%/năm sẽ trở thành “mặt bằng mới” trong năm 2026.

Các áp lực lên mặt bằng lãi suất là có thật nhưng lãi suất tăng mức nào cũng là câu hỏi được nhiều người đặt ra. 

Riêng về lãi suất cho vay, chuyên gia kinh tế - TS Cấn Văn Lực cho rằng mặt bằng lãi suất cho vay sẽ không thể tăng tương ứng mức tăng của lãi suất huy động. Nguyên nhân là do các ngân hàng phải tuân theo chỉ đạo từ Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu giữ ổn định mặt bằng lãi suất cho vay để hỗ trợ nền kinh tế. “Hệ quả là biên lợi nhuận (NIM) của các ngân hàng đang bị thu hẹp lại. Các ngân hàng đang phải “hy sinh” một phần lợi nhuận để gánh đỡ chi phí vốn tăng cao, giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn ổn định hơn” - TS Cấn Văn Lực nói và cho rằng xu hướng thắt chặt biên lợi nhuận này dự kiến sẽ còn tiếp diễn ít nhất là hết quý I năm 2026.

Ông Nguyễn Tú Anh - Giám đốc Nghiên cứu Chính sách (Trường Đại học VinUni), nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ. Nếu việc giải ngân đầu tư công được đẩy mạnh và dòng tiền trong hệ thống ngân hàng được luân chuyển nhịp nhàng, áp lực tăng lãi suất đột biến sẽ được giảm bớt.

Ông Tú Anh cho rằng, nếu các điều kiện quốc tế thuận lợi như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục lộ trình hạ lãi suất, dòng vốn ngoại quay trở lại và lạm phát trong nước được kiểm soát – lãi suất thậm chí có dư địa giảm nhẹ từ quý II/2026. Quan điểm này dựa trên định hướng của Chính phủ là vừa theo đuổi mục tiêu tăng trưởng cao, vừa đảm bảo ổn định vĩ mô.

Chuyên gia kinh tế - TS Huỳnh Trung Minh dự báo từ quý I/2026, lãi suất cho vay bình quân sẽ tăng thêm khoảng 0,4-0,6%, đưa mức lãi suất phổ thông lên ngưỡng 6,9-7,5%/năm. Căng thẳng có thể gia tăng vào quý II và quý III/2026 khi lãi suất có khả năng chạm mốc 7,5-7,8%/năm. Nếu áp lực tỷ giá không hạ nhiệt, NHNN có thể buộc phải nâng lãi suất điều hành lên mức 5-5,25%.

Còn công ty Chứng khoán Vietcap bày tỏ kỳ vọng áp lực tăng lãi suất huy động hiện tại sẽ nằm trong tầm kiểm soát do cho rằng Ngân hàng Nhà nước sẽ duy trì lập trường nới lỏng trong chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng GDP 10% của Chính phủ trong năm 2026.

PGS.TS Nguyễn Hữu Huân.
PGS.TS Nguyễn Hữu Huân.
PGS.TS Nguyễn Hữu Huân - giảng viên Trường Đại học Kinh tế TPHCM: Mặt bằng lãi suất cho vay sẽ buộc phải duy trì ở mức hợp lý nhằm đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 8 - 10%. Về phía các ngân hàng, khi lãi suất huy động tăng, lãi suất cho vay buộc phải điều chỉnh, khiến biên lãi ròng (NIM) thu hẹp. Trong bối cảnh này, nhiều ngân hàng cắt giảm chi phí hoạt động thông qua ứng dụng công nghệ, tinh giản nhân sự, đóng bớt phòng giao dịch, chi nhánh. Nhờ đó, các ngân hàng có thể chấp nhận NIM mỏng hơn nhưng vẫn đảm bảo lợi nhuận.

H.Hương