Hòa trong không khí hồ hởi, phấn khởi đón chào lần thứ 75 Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2 tháng 9 (2/9/1945 - 2/9/2020), chúng ta vô cùng xúc động tưởng nhớ đến Chủ tịch Hồ Chí Minh kính mến, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, danh nhân văn hóa thế giới.
Người là kiến trúc sư và linh hồn của Mặt trận Dân tộc thống nhất. Người đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam dầy công vun đắp cho khối đại đoàn kết toàn dân không ngừng nở hoa, kết trái và trở thành một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
1. Nhân dịp này, chúng ta cùng nhau ôn lại những trang sử vô cùng vẻ vang của dân tộc ta trong suốt 75 năm qua dưới ngọn cờ của các tổ chức Mặt trận do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập và lãnh đạo.
Như chúng ta đã biết, ngày 1/9/1939 chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Nó phát triển nhanh với mức độ và quy mô ngày càng ác liệt. Tình hình đó đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải có quyết sách kịp thời, nhạy bén và sát sao hơn.
Ngày 29/3/1941, sau 30 năm ra đi tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước để cùng Trung ương Đảng lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc. Người triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 8 để xem xét lại chính sách của Đảng và nhận định: Cách mạng Việt Nam lúc này là cách mạng giải phóng dân tộc. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng thổ địa để lôi kéo địa chủ tiến bộ mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất Pháp - Nhật. Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội gọi tắt là Việt Minh.
Việt Minh ra đời với lá cờ đỏ sao vàng năm cánh và “sẽ là cờ Tổ quốc khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”.
Việt Minh đề ra Chương trình 10 điểm với khẩu hiệu: “Dân tộc trên hết” “Tổ quốc trên hết” và mục tiêu: “Nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, làm cho dân Việt Nam sung sướng tự do”.
Chương trình khẩu hiệu, mục tiêu Việt Minh đưa ra rất thiết thực và sát hợp với nguyện vọng của nhân dân, có sức lôi cuốn mạnh mẽ “sĩ, nông, công, thương, binh, phú hào yêu nước, phụ lão thương nòi”, được nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh. Phong trào và tổ chức Việt Minh phát triển nhanh chóng và sâu rộng ở cả thành thị lẫn nông thôn, trở thành lực lượng chính trị to lớn và hùng mạnh, làm cơ sở cho sự ra đời và phát triển lực lượng vũ trang, xây dựng và phát triển các căn cứ địa cách mạng, các vùng giải phóng.
Với khẩu hiệu “sắm vũ khí, đuổi thù chung” và “phá kho thóc giải quyết nạn đói” do Việt Minh phát động đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân ta đi từ khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa. Và chỉ trong vòng hai tuần lễ, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.
Đúng nửa tháng sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1045), ngày 17/9/1945, trong “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”, Người nêu rõ: “Chúng ta đã lập nên một chính thể dân chủ cộng hòa. Đó là một cuộc thắng lợi xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử nước ta… Vì sao có cuộc thắng lợi đó? Một phần vì tình hình quốc tế thuận tiện cho ta, nhất là lực lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc.
Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết!
Không ai chiến thắng được lực lượng đó”.
Qua bức thư trên cũng như hàng loạt những bài phát biểu sau đó, Người muốn lấy thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám để chứng minh cho những nhận định đúng đắn mà Người đã nêu ra tại Hội nghị Trung ương 8 của Đảng họp vào tháng 5 năm 1941 tại Pắc Pó (Cao Bằng) . Đó là “Sử ta dạy ta rằng khi nào dân ta đoàn kết thì nước ta được độc lập; khi nào dân ta chia rẽ thì nước ta bị nước ngoài đô hộ”.
Tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại của khối đại đoàn kết dân tộc, trả lời phỏng vấn của một nhà báo nước ngoài khi nhân dân ta với cuốc, thuổng, giáo mác, gậy tầm vông… buộc phải tiến hành cuộc chiến tranh thần thánh chống đội quân nhà nghề của thực dân Pháp được trang bị đến tận răng định quay lại thống trị đất nước ta một lần nữa. Người nói:
“Ngày nay châu chấu đá voi
Ngày mai voi sẽ phải lòi ruột ra”.
Và sự tiên đoán đó đã được hiện thực hóa bằng chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Tổng kết lịch sử đấu tranh lâu dài của dân tộc, phát biểu tại Đại hội toàn quốc thống nhất Mặt trận Việt Minh - Liên Việt ngày 3/3/1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra một khẩu hiệu nổi tiếng:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”.
Và Người khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta, là động lực cơ bản và là một yếu tố quyết định thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước”.
Có thể khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, của tư tưởng Hồ Chí Minh, là yếu tố quyết định thắng lợi và là bài học lớn của cách mạng Việt Nam.
2. Vận dụng sáng tạo bài học lớn đó vào hoàn cảnh cụ thể của từng thời kỳ cách mạng, 75 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
-Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
-Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc.
-Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
-Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc, trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và hòa bình Việt Nam, nhân dân cả nước đã thực hiện thắng lợi Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới đã đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp tục được củng cố và tăng cường; độc lập, chủ quyền quốc gia, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được củng cố; vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới được nâng cao; sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên gấp bội, tạo tiền đề để nhân dân ta phấn đấu xây dựng nền tảng, sớm đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Song đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay có nhiều điểm khác so với thời kỳ nhân dân ta vùng lên làm Cách mạng Tháng Tám cũng như trong cách mạng dân tộc dân chủ.
Nếu như trước đây trong thời kỳ bí mật, Đảng Cộng sản bị kẻ thù đặt ra ngoài vòng pháp luật và bị khủng bố dã man; nhờ có đường lối đúng, biết “đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc” nên được nhân dân hết lòng tin yêu, cưu mang, giúp đỡ và che chở, đùm bọc “cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức, lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” thì khi Đảng hoạt động công khai và trở thành đảng cầm quyền, thành lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội. Điều kiện khách quan đó rất dễ làm cho cán bộ, đảng viên sa vào bệnh quan liêu, xa dân, cửa quyền, mệnh lệnh, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, thậm chí làm sai lệch đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Những thực tế đau lòng trong công tác xây dựng Đảng những năm qua như: Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, nhất là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí xảy ra ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm cho nhân dân ta băn khoăn, lo lắng, thậm chí bất bình, đã làm giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
3. Nhân dân vui mừng, từ khi có Nghị quyết 04 khóa XII, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng đã mang lại những kết quả thiết thực: Hàng loạt những vụ án trọng điểm được đưa ra xét xử công khai; hơn một trăm cán bộ do Trung ương quản lý bị kỷ luật ở những mức độ khác nhau, không ít đồng chí bị tù tội trong đó có Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, cả đương chức lẫn về hưu. Thực tế cho thấy: Nguyên tắc không có vùng cấm, không có ngoại lệ trong việc xử lý cán bộ thoái hóa, biến chất đã lấy lại niềm tin trong nhân dân.
Những kết quả đạt được trong việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã góp phần ngăn chặn những thói hư, tật xấu trong một bộ phận cán bộ, góp phần quan trọng vào việc đoàn kết trong Đảng - hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc.
Điểm khác biệt thứ hai so với thời kỳ Cách mạng Tháng Tám là: Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ của đất nước. Nếu như trong Cách mạng Tháng Tám, nhờ sức mạnh dời non, lấp biển của nhân dân tập hợp xung quanh Việt Minh mà con thuyền cách mạng do Đảng và Hồ Chủ tịch chèo lái đã đi tới đích quang vinh, thì ngày nay, chính những yêu cầu, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân lại là xuất phát điểm để hình thành đường lối đổi mới của Đảng và cũng chính các phong trào, các cuộc vận động Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khởi xướng được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng đã và đang là yếu tố quan trọng biến đường lối đổi mới thành hiện thực.
Để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thành công, điều kiện tiên quyết là phải phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc.
Muốn có được yếu tố đó, các cấp ủy Đảng cả hệ thống chính trị cần tiếp tục làm cho đường lối đại đoàn kết dân tộc của Đảng, tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nội dung cốt lõi là lòng yêu nước và quyền làm chủ của nhân dân thấm đượm trong mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại.
Nhân dân kỳ vọng và đòi hỏi Đảng lãnh đạo, chỉ đạo Đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIII tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII làm trong sạch đội ngũ cán bộ, có những biện pháp quyết liệt hơn nữa để sớm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng thoái hóa về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội diễn ra ngày càng tinh vi, trước hết là trong đội ngũ lãnh đạo và quản lý các cấp.
Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung và phát triển 2011” đã khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử”.
Để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn hiện nay, Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng cho được Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân - một Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến cuả nhân nhân và chịu sự giám sát của nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ người đảng viên bình thường đến người lãnh đạo cao nhất làm tròn trách nhiệm “Vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo Mặt trận” tức sống trong dân, gương mẫu trước dân trong lao động, sản xuất, công tác và học tập, chịu sự giám sát của nhân dân để qua đó lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân làm theo như các thế hệ cán bộ, đảng viên lớp trước đã từng làm trong Cách mạng tháng Tám và trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.
Chúng ta hiểu rằng, bối cảnh ngày nay đã khác xa thời xưa. Xã hội ta đang vận hành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế với biết bao thời cơ và thách thức. Song có một điều không khác, không thay đổi. Đó là lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, là mục tiêu Độc lập, Tự do, là chủ nghĩa quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, là một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa nghĩa phồn vinh, hạnh phúc.
Mục tiêu đó mãi mãi gắn bó những người đảng viên cộng sản với những người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài thành một khối thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, sẽ đạt bằng mọi khó khăn, trở ngại đưa dân tộc ta, đất nước ta vững bước trên con đường Độc lập - Tự do - Hạnh phúc mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã đề ra.