85 năm Ngày truyền thống MTTQ Việt Nam: Nhớ về những người có công
Michel Văn Vỹ có công lớn với cách mạng nhưng rất ít người biết. Sau khi đã bắt buộc phải làm hội trưởng Hội TBQN Nam kỳ, thường xuyên tiếp xúc với mặt trận Việt Minh, Sài Gòn - Chợ Lớn, ông trở thành cơ sở chí cốt của Thành ủy. Thời gian lấy chữ ký vào bản tuyên ngôn, ông đang là Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt Sài Gòn - Chợ Lớn.
Những ngày Nam kỳ khởi nghĩa. Ảnh: TL.
Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (19/12/1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh có đoạn: “Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc”.
Lúc bấy giờ, địch có đủ loại vũ khí tối tân, tương quan lực lượng giữa ta và địch hết sức chênh lệch ngoài sức tưởng tượng nhưng địch không hề uy hiếp được ta. Hơn 3 tháng sau, một sự kiện quan trọng xảy ra đã thử thách nhân dân ta.
Pháp thay Cao ủy ở Việt Nam, Bollaert thay D’Azgenlieu. Tháng 3/1947 Bollaert đọc diễn văn nhậm chức tại Hà Đông đã đề nghị ngừng bắn để thương thuyết, ta biết hắn sẽ dùng tay sai để thành lập chính phủ bù nhìn. Nhân cơ hội này, Chính phủ ra tuyên bố sẽ ngừng bắn ngày ngày 19/4/1947 để sẵn sàng thương thuyết.
Thành ủy Sài Gòn - Chợ lớn tổ chức lấy chữ ký của trí thức thành phố yêu cầu Pháp phải thương thuyết với Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khác hẳn với Hà Nội bị địch chiếm, trí thức Sài Gòn - Chợ Lớn đều làm việc tại thành phố cùng với gia đình. Một số người đã lo trí thức ký tên địch sẽ gây khó khăn, có thể bị bắt, nếu làm việc cho chúng sẽ mất việc. Dư luận đều tin nếu các trí thức hầu hết ký tên địch sẽ không dám khủng bố. Địch từng thành lập “Chính phủ Nam Kỳ tự trị”, chúng mời các trí thức có tiếng tham gia “Chính phủ” và có lời phát biểu ủng hộ chúng, không trí thức nào đồng tình, chúng đã thất bại thảm hại.
Thành ủy viên phụ trách công tác trí vận tại Sài Gòn - Chợ Lớn là đồng chí Hoàng Quốc Tân, chính đồng chí đã có sáng kiến lấy chữ ký của trí thức thành phố đòi Pháp phải thương thuyết với Chính phủ ta và được Bí thư Thành ủy Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) đồng ý. Đồng chí là cháu nội của khâm sai đại thần Hoàng Cao Khải, hai bác ruột đều là tổng đốc. Cha đồng chí không ra làm quan, chỉ ở nhà quan hệ với các sĩ phu yêu nước.
Nhà giàu đồng chí được học ở Pháp đậu Tiến sĩ Luật khoa rồi ở lại Pháp hoạt động công đoàn và gia nhập Đảng Cộng sản Pháp. Hồ Chủ tịch sang Pháp tháng 5/1946, là thượng khách của Chính phủ Pháp. Đồng chí đã về nước cuối năm 1946 trong danh sách các trí thức ta ở Pháp, được Hồ Chủ tịch chọn lựa và tham gia Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn.
Cuộc vận động trí thức ký tên dưới hình thức thảo và ký một bản tuyên ngôn (manifeste) với nội dung có thể huy động nhiều trí thức kể cả nhân sĩ tham gia. Hai luật sư lão thành đã nhận viết bản tuyên ngôn.
Luật sư Trịnh Đình Thảo đã cãi cho Đảng Cộng sản tháng 5/1933 trong vụ án lớn xử một số đồng chí lãnh đạo của Đảng, riêng luật sư 10 người, trong đó có hai luật sư của Đảng Cộng sản Pháp. Luật sư Trịnh Đình Thảo chuẩn bị rất chu đáo để rời thành phố ra vùng giải phóng hoạt động lâu dài.
Tiếp luật sư, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Lê Duẩn đã nói thành thật Đảng rất cần luật sư là cơ sở tin cậy trong lòng Sài Gòn - Chợ Lớn, đó là sào huyệt sâu nhất của địch, tập trung bọn đầu sỏ, rất cần người có kinh nghiệm, có trình độ lại quen biết rất rộng trong tầng lớp thượng lưu, trí thức, kể cả quen biết những người trong bộ máy thống trị của địch. Luật sư đã trở về Sài Gòn - Chợ Lớn, yên tâm bám thành phố.
Luật sư Vương Quang Nhường có vợ là công chúa Lương Nhàn, em gái vua Duy Tân. Luật sư Vương Quang Nhường rất mừng được đồng chí Hoàng Quốc Tân đến thăm. Hai ông thảo tuyên ngôn bằng tiếng Pháp, đồng chí Hoàng Quốc Tân dịch ra tiếng Việt.
Chỉ riêng việc bản tuyên ngôn do hai trí thức lớn viết cũng đã thu hút sự quan tâm của đông đảo trí thức, nhân sĩ. Nội dung cốt lõi của bản tuyên ngôn được tôn trọng trọn vẹn: “Chính phủ kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu là Chính phủ hợp pháp, duy nhất của nhân dân Việt Nam. Chính phủ Pháp phải thương thuyết với Chính phủ kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo để chấm dứt chiến tranh”.
Bản tuyên ngôn được thảo xong, đồng chí Hoàng Quốc Tân và mấy trí thức cộng tác chặt chẽ với đồng chí đã đưa đến cụ Lưu Văn Lang xem và ký tên trước, sau đưa lại bác sĩ Nguyễn Văn Hương, là hai nhân sĩ ký tên đầu tiên. Cụ Lưu Văn Lang là một trí thức rất có uy tín, được mọi người kính phục, ngưỡng mộ. Cụ tốt nghiệp trường đào tạo kỹ sư lớn nhất của Pháp (E cole centrale de Paris), làm kỹ sư cầu đường.
Thường có sự kiện gì xảy ra làm cho dư luận quan tâm, nhiều trí thức kể cả tầng lớp khác theo dõi thái độ của cụ Lưu Văn Lang như thế nào để làm theo. Giữa năm 1946, Pháp thành lập “Chính phủ Nam kỳ tự trị”, chúng đến mời cụ làm Thủ tướng, cụ trả lời: “Tôi đã quá già để làm tay sai”.
Đến nhà cụ Lưu Văn Lang, đồng chí Hoàng Quốc Tân dự đoán có thể gặp khó khăn vì con rể cụ là bác sĩ Trần Văn Đỗ chống cộng khét tiếng, cực đoan. Trần Văn Đỗ là chú ruột Trần Lệ Xuân, vợ của Ngô Đình Nhu. Cụ Lưu Văn Lang đọc bản tuyên ngôn rồi trao đổi với đồng chí Hoàng Quốc Tân và bà Bùi Thị Cẩm về nội dung bản tuyên ngôn, hẹn hôm khác lại đến để bàn tiếp. Cuối cùng cụ chỉ yêu cầu sửa một vài chữ rồi ký vào bản tuyên ngôn.
Không ngờ gay go và khó khăn lại là tại nhà bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng. Giới bác sĩ ở Sài Gòn tôn ông là nhà bác học. Ông chuyên về vi sinh vật học, trước làm ở Viện Pasteur sau ra mở phòng thí nghiệm riêng. Không những ông có lương tâm chức nghiệp, lại giàu lòng bác ái giúp đỡ mọi người.
Hôm đồng chí Hoàng Quốc Tân và 3 trí thức vẫn cùng đi với đồng chí đến nhà bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng để đưa ông xem bản tuyên ngôn thì gặp bác sĩ Trần Văn Đỗ, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Luyện (hai người em của Ngô Đình Diệm) và ông Trần Văn Văn, thủ lĩnh Đảng Đại Việt. Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng muốn hai bên đều có mặt ở nhà ông để tranh luận về bản tuyên ngôn.
Lập trường của phe Trần Văn Đỗ và Ngô Đình Nhu là: Không người Việt Nam nào không muốn Việt Nam được tự do, độc lập. Song Pháp không bao giờ chịu thương thuyết với cộng sản và trả tự do độc lập cho Việt Nam nếu Chính phủ Việt Nam do cộng sản lãnh đạo như Chính phủ Hồ Chí Minh. Vì vậy trong bản tuyên ngôn, trí thức phải kêu gọi thành lập một chính phủ quốc gia và cũng kêu gọi Pháp thương thuyết với Chính phủ này.
Đồng chí Hoàng Quốc Tân hiểu ngay là phe đối lập đang dọn đường cho việc thành lập một Chính phủ quốc gia chống cộng. Đồng chí trả lời: “Việc thành lập một chính phủ có cộng sản hay không có cộng sản, do nhân dân định đoạt, không thuộc quyền nước Pháp. Nước Pháp không có quyền buộc nước ta phải có một chính phủ quốc gia mới trả tự do, độc lập cho nhân dân ta. Nước Pháp đã thành lập “nước Nam Kỳ tự trị”, tách Nam Bộ khỏi nước Việt Nam, nước Pháp và bọn tay sai cho là nguyện vọng của nhân dân Nam Kỳ. Nếu Chính phủ Hồ Chí Minh không vạch trần mưu mô thâm độc của Pháp thì ngày nay nước ta chỉ còn có Bắc kỳ và Trung kỳ. Chiến tranh đang tiếp diễn, muốn chấm dứt chiến tranh thì phải thương thuyết với những người đang cầm súng kháng chiến, chứ không thể thương thuyết với những người ngoài cuộc”.
Ngày hôm sau, bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng đã ký bản tuyên ngôn. Chỉ mấy ngày đầu bản tuyên ngôn đã được hơn một trăm người ký tên, hầu hết có tiếng tăm trong giới bác sĩ, kỹ sư, luật sư, giáo sư, ký giả, nghệ sĩ… Ban tổ chức không còn chia nhau đi lấy chữ ký, nhiều người tự tìm đến ký tên. Các kỹ nghệ gia, thương gia, đại điền chủ, các cụ đốc phủ cũng có tên trong bản tuyên ngôn. Khi đã thu được gần 500 chữ ký, mới kết thúc lấy chữ ký.
Bản tuyên ngôn với các chữ ký đã được in và gửi cho Chính phủ Pháp, báo chí ở Pháp và nước ngoài. Cụ Lưu Văn Lang đã đích thân mang bản tuyên ngôn đến trao tận tay cho Cao ủy Pháp Bollaert. Một thắng lợi lớn, càng thấy lớn khi lúc này quân đội ta mới bắt đầu có bộ đội địa phương nhưng giữa sào huyệt của địch trí thức, nhân sĩ chỉ công nhận Chính phủ Trung ương mới là hợp pháp, duy nhất dù Pháp coi là kẻ thù. Rõ ràng ta không hề yếu dù địch rất mạnh về vũ khí hiện đại.
Đúng vào dịp này, Viện sĩ nổi tiếng của Pháp G. Duhamel, thư ký Viện Hàn lâm Pháp đã thăm Sài Gòn. Giới trí thức, nhân sĩ ngỏ ý muốn có một cuộc tiếp xúc. Ông sẵn sàng nhận lời. Cuộc họp tổ chức tại nhà luật sư Trịnh Đình Thảo.
Chủ tọa cuộc họp là cụ kỹ sư Lưu Văn Lang và người trình bày nội dung bản tuyên ngôn là ông Michel Văn Vỹ, quốc tịch Pháp, từng là phó giám đốc ngân hàng Pháp - Hoa. Ông nói nhân dân Pháp chống phát xít Đức như thế nào, nhân dân Việt Nam cũng chống đội quân viễn chinh Pháp như vậy. Ông cực lực lên án cuộc chiến tranh thuộc địa thứ hai vô cùng tàn bạo của Pháp ở Việt Nam.
Michel Văn Vỹ rất thân với giới cầm quyền Pháp ở Việt Nam, riêng với thống đốc Nam kỳ Hoeffel, thân đến mức chuyện trò với nhau xưng hô “mày, tao”. Chính nhờ quá thân như vậy, ông đã lập công lớn với cách mạng. Nam kỳ tập hợp quần chúng rất khó khăn, thường quá 5 người đã bị cảnh sát nhòm ngó.
Tới giữa năm 1944, chuẩn bị cho đón thời cơ Tổng khởi nghĩa, chưa tập hợp quần chúng sẽ khó phổ biến rộng rãi chủ trương đường lối của Đảng. Liền có sáng kiến, Nam kỳ chưa có Hội Truyền bá Quốc ngữ (Hội TBQN), nếu có thì các làng, các đường phố đều có lớp học chống mù chữ, mỗi lớp tập hợp ít nhất vài chục người, đây là dịp cán bộ, đảng viên cơ sở có thể kết hợp tiếp xúc công khai với quần chúng để tuyên truyền, giáo dục.
Đơn xin thành lập Hội TBQN đến tay Thống đốc Hoeffel, hắn từ chối ngay, Hội TBQN Bắc kỳ và Trung kỳ đâu chỉ có dạy chữ mà còn xúi giục lòng yêu nước chống Pháp. Việc Thống đốc Hoeffel cấm hội TBQN Nam kỳ đến tai Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, hai anh liền gợi ý với đồng chí Huỳnh Tấn Phát, người làm đơn xin được thành lập Hội TBQN, nên đến nhờ Michel Văn Vỹ can thiệp.
Đồng chí Huỳnh Tấn Phát đã đến gặp Michel Văn Vỹ và ông nhận lời ngay. Gặp Michel Văn Vỹ, Hoeffel ra sức giải thích “Việt Minh không dạy chữ đâu, chúng sẽ chỉ dậy chống chúng ta”. Michel Văn Vỹ cam đoan Hội TBQN Nam kỳ chỉ dạy chữ “nhất định không chống chúng ta”.
Không thể từ chối nhưng Hoeffel đòi hỏi Hội TBQN Nam kỳ phải do Michel Văn Vỹ làm hội trưởng thì hắn mới cấp phép. Đòi hỏi đến như vậy thì Michel Văn Vỹ thấy ngán vì ông sống ở Pháp lâu, vợ Pháp, có đọc thông viết thạo chữ Quốc ngữ đâu.
Khi Michel Văn Vỹ trở về gặp đồng chí Huỳnh Tấn Phát, đồng chí nói ngay “cứ nhận chức hội trưởng Hội TBQN, còn mọi việc chúng tôi sẽ lo”. Mặt trận Việt Minh Sài Gòn - Chợ Lớn đã lặng lẽ, kín đáo nhân danh Hội TBQN Nam Bộ, tổ chức lễ ra mắt Hội rất hoành tráng, Ban trị sự Hội phần lớn là giới thượng lưu có quốc tịch Pháp, bạn thân với hội trưởng.
Michel Văn Vỹ đã qua đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi nhân dân trong xứ lập nên đạo binh chống giặc mù chữ. Thỉnh thoảng vui chuyện Michel Văn Vỹ kể lại ông đã phải tập đọc nhiều lần bài diễn văn khai mạc để khi chính thức lên tiếng, Chánh hội trưởng không còn vấp váp, ngắc ngứ.
Michel Văn Vỹ có công lớn với cách mạng nhưng rất ít người biết. Sau khi đã bắt buộc phải làm hội trưởng Hội TBQN Nam kỳ, thường xuyên tiếp xúc với mặt trận Việt Minh, Sài Gòn - Chợ Lớn, ông trở thành cơ sở chí cốt của Thành ủy. Thời gian lấy chữ ký vào bản tuyên ngôn, ông đang là Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt Sài Gòn - Chợ Lớn.
Bộ sách “Mùa thu rồi, ngày hăm ba” đã chọn 40 nhân vật tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm ở Nam Bộ có in tóm tắt tiểu sử mỗi vị. Bên cạnh Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Hà Huy Giáp có Michel Văn Vỹ.