Nếu như ở các vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ chợ là nơi để cư dân các làng các thôn giao thương và “chợ phiên” thường được họp vào các ngày cụ thể trong tháng. Khi đó thì chợ vùng cao miền núi phía Bắc lại lấy ngày chủ nhật hàng tuần làm ngày họp chợ. Chợ vùng cao lại có khác bởi nó không chỉ là nơi giao thương mà còn để bà con các dân tộc vùng cao tới đây giao lưu.
Tôi từng có 10 năm đóng quân ở biên giới phía Bắc, nên rất biết cái cảm giác háo hức được đi chơi chợ. Số là đầu những năm 80 của thế kỷ 20, cánh lính trẻ chúng tôi cứ nhấp nhổm mong chờ đến ngày chủ nhật để được xuống phố đi chơi chợ. Ngày hôm đó những anh lính trẻ (nằm trong số quân được đơn vị cho phép) dậy sớm, ăn mặc tươm tươm một chút (ở trên chốt ăn mặc thế nào chỉ mấy thằng với nhau nên không sao) rồi í ới gọi nhau theo lối mòn xuyên rừng xuống núi.
Chặng đường đi bộ từ “chốt” xuống tới phố huyện chừng mười lăm mười sáu cây số nhưng không vấn đề gì. Khổ. Lính tráng thì có gì mà bán, thì làm gì có tiền để mà mua nhưng được “pay hang”, tức là đi phố huyện rồi được vào chợ huyện rồi là vui như tết. Suốt cả buổi sáng, lính trẻ cứ lân la chỗ này, sán vào chỗ kia ngó một cái, hỏi một cái. La cà như thế chẳng thấy mỏi chân, không thấy đói bụng, mặt mày chợt tươi hơn hớn.
Chẳng cần phải đợi mặt trời nhô lên trên đỉnh Mã Pì Lèng mới dắt díu rủ nhau xuống núi. Cũng chẳng cần phải chờ cho tới lúc vầng trán của các chàng trai Mông đỏ nhừ mới biết cuộc rượu đã bước vào độ thắm. Chợ Đồng Văn tựa như có “ma lực” khó cưỡng, vừa níu kéo lại vừa mời gọi.
Tối đó chúng tôi ngủ lại ở thị trấn Mèo Vạc. Một đêm tuyệt vời, đầu óc lâng lâng, ánh mắt bâng khuâng trong điệu xoay xoay của những chiếc ô rực rỡ sắc màu và trong tiếng khèn Mông réo rắt ngỡ tưởng sẽ không dứt lòng mà đi được.
Một đêm tôi đã thức trọn bởi “ký ức đi chơi chợ huyện” của ngày nào cứ dội về náo nức, để rồi sớm nay vội vã giục nhau đi từ lúc trời còn chưa tảng sáng. Bà Hà Thị Minh Hạnh, một người phụ nữ có vóc dáng mảnh mai nhưng nghe nói là “nữ tướng” của những cung đường hiểm trở, bà Hạnh từng là lãnh đạo ngành giao thông của tỉnh Hà Giang nên rất thuộc được đường đi lối lại, bà Hạnh giục: “Đi chợ Đồng Văn thì phải đi từ sớm. Sớm mới thấy hết cái hay, cái độc, cái lạ và cái tình trong nét sinh hoạt văn hóa rất riêng có của người vùng cao nguyên đá chúng tôi”.
Sương núi vẫn chùng chình chưa chịu tan lại như cố tình làm tăng sự huyền bí của cung đường tựa như được treo vào vách đá. Sương giăng mờ còn gây thêm sự hiếu kỳ của mỗi chúng tôi. Lấp ló trong màn sương trắng đục, thập thò bên những thân cây sa mộc, í ới nơi chân dốc là những dáng hình con gái váy hoa sặc sỡ. Bà Minh Hạnh cười vui, bà cho biết: “Chị em đi chơi chợ đấy. Người Mông có, người Giáy có, người Lô Lô có, người Pu Péo có... Hễ là người sinh sống trên núi là xuống núi đi chơi chợ chợ.
Họ đi một mình hoặc cũng có thể rủ nhau vài ba người cùng đi. Có người đi từ chập tối hôm trước. Có người đi từ lúc nửa đêm. Người nào nhà gần hơn thì cũng tầm hai ba giờ sáng là lục tục rời nhà. Nhà ở cao và xa thế nhưng cứ đến ngày chủ nhật là việc gì thì bỏ đấy mà đi bằng được. Người cao nguyên đá không nói là đi chợ mà bảo là chơi chợ. Chơi chợ mới đúng ý nghĩa, mới rõ cái chất, cái nếp sống của bà con”.
Chợ Đồng Văn ở ngay trung tâm thị trấn. Nghe nói khi xây dựng chợ này người ta đã sử dụng hoàn toàn vật liệu bằng đá. Đá của cao nguyên đá có khác, thật công dụng và hữu hiệu, đá dựng nhà, đá kê bờ rào, đá xếp bao quanh nương ngô nương sắn và dĩ nhiên cũng đá được dành cho xây chợ. Nét trầm của đá đã tự thân nói lên vẻ thâm mặc của xứ cao nguyên còn nhiều bí ẩn này.
Bước chân vào chợ tôi có cảm giác như đang đi trên những con đường được trải muôn hoa vậy. Dường như bao nét riêng của bản sắc văn hóa của từng dân tộc sống trên vùng cao nguyên đá danh bất hư truyền đều tụ về đây. Vùng cao nguyên đá này từng được mệnh danh là “vùng đất người Mông” đậm đà hào kiệt và đượm nét tài hoa cùng tụ lại để tạo thành một dấu ấn chung có tên gọi là “chợ Đồng Văn”.
Theo như lời giới thiệu từ lúc còn ngồi trên xe của bà Minh Hạnh thì chợ Đồng Văn có hai nét độc đáo. Nét độc đáo thứ nhất là nét “chợ” bởi bà con xuống chợ để đem về chợ nào là nông sản, nào là sản vật do chính mình làm ra, do chính mình kiếm được để tới chợ trao đổi hàng hóa, để mua và để bán. Nét độc đáo thứ hai là nét “văn hóa”. Đây mới là nét chính tạo nên sự hấp dẫn của chợ Đồng Văn.
Xuống chợ là để khoe tài hoa thêu thùa dệt vải may vá của mình, để giới thiệu khả năng đặc biệt vốn có của mình, để giao lưu, để gặp gỡ, để được trình diễn hay trình tấu những giai điệu đậm đà phong vị núi rừng như thổi khèn, thổi sao, múa ô, hát giao duyên, để và là để… yêu nhau.
Hơi tách khỏi đoàn công tác hay chính xác hơn là tôi bị hút theo hai bóng hồng vừa đi ngang qua. Hai cô gái trẻ người Lô Lô sáng nay diện đến ngẩn ngơ những ai chạm mắt. Gương mặt trẻ trung tròn trĩnh, đôi mắt long lanh, gò má ửng hồng, hàm răng trắng lóa, thêm vào đó là hai bộ váy hoa như còn mới tinh. Váy của thiếu nữ Lô Lô cũng là thể hiện người con gái mặc nó có đức tính tốt đẹp gì.
Cũng như các cô gái của các dân tộc khác. Con gái Lô Lô thường tự tay thêu hoa, tự tay may váy. Sáng nay các cô xuống phố đi chơi chợ với bộ váy nổi bật với hai màu chủ đạo là đen và đỏ với điểm xuyến trang trí là những quả bông đỏ lung lẩy dưới mỗi bước chân. Sáng nay, hẳn các cô ý muốn khoe đôi tay khéo léo của mình trước những ánh nhìn của các chàng trai. Lúc này còn sớm nên các chàng trai còn tỉnh táo. Tầm trưa họ mới là “chính họ” nhờ những bát rượu Lũng Táo nấu bằng men lá uống ngọt mà say mềm.
Vời tay hỏi một em gái người Mông, áo đen, váy hoa xanh, em chừng mười ba mười bốn tuổi, hỏi chuyện nhanh tôi được em cho hay “Em tên là Xú”. Tôi hỏi: “Tên Xú có nghĩa là gì”. Trả lời: “Xú là sợi chỉ”. Ái chà, tên có nghĩa là “sợi chỉ” có khác. Người Mông khi đặt tên cho con mình thì hình như họ muốn gửi gắm điều gì vào đó. Cha mẹ em gái này chắc muốn con mình lớn lên tuy mỏng manh như sợi chỉ nhưng chính sợi chỉ ấy lại kết nối những mảnh vụn lại với nhau. Lại hỏi: “Nhà Xú ở đâu?”. Trả lời: “Nhà em ở mãi trên núi kia. Em xuống chợ một mình vì em thích”.
Vì thích. Đơn giản thế thôi nhưng chắc em muốn cho mọi người thấy rằng em đã đủ “lớn” để đi chơi chợ rồi. Tôi thì tôi đoán, em xuống chợ là để học. Em học ở chợ, học từ các mẹ các chị. Thiếu nữ cao nguyên đá bây giờ đã khá tự tin. Ham học hỏi.
Kể từ khi cao nguyên đá Đồng Văn được công nhận là “công viên địa chất toàn cầu” đến giờ. Kể từ khi mùa hoa tam giác mạnh được tổ chức thành “lễ hội hoa tam giác mạnh” đến giờ thì du khách thập phương đến với nơi địa đầu Tổ quốc, đến với nơi đỉnh chóp của đất nước cũng đã nhiều hơn. Du khách nước ngoài cũng đến nhiều hơn. Cùng với chợ phiên Đồng Văn đã có với nét văn hóa đặc sắc, độc đáo đã và đang mở ra một triển vọng du lịch to lớn cho huyện Đồng Văn nói riêng, cho tỉnh Hà Giang nói chung.
Một ngày chơi chợ trôi vèo. Nhoáng cái chợ đã vào đêm. Ánh đèn phố thị lung linh gợi mở. Trong nhập nhòa màu sắc đó tôi đã thấy ngân lên tiếng khèn Mông, tiếng khèn như thứ men tình say mê rủ rê lôi kéo. Tiếng khèn nối đêm với ngày nối ngày với đêm. Không gian dài mãi ra chừng như không dứt.