Báo Đại đoàn kết Sức khỏe

Bác sĩ nội trú - không chỉ là lựa chọn nghề nghiệp - Bài cuối: Chiến lược nhân lực: Cần đột phá về cơ chế

Báo Đại đoàn kết Tăng kích thước chữ

Bác sĩ nội trú - không chỉ là lựa chọn nghề nghiệp - Bài cuối: Chiến lược nhân lực: Cần đột phá về cơ chế

Báo Đại đoàn kết trên Google News

Được xem là lực lượng được đào tạo khắt khe nhất, bác sĩ nội trú đang giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế. Tuy nhiên, quy mô đào tạo còn hạn chế, chính sách hỗ trợ chưa tương xứng.

Trong bối cảnh Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt mục tiêu đột phá về nhân lực y tế, việc định vị lại và có cơ chế đãi ngộ công bằng cho bác sĩ nội trú trở thành yêu cầu cấp thiết.

Định vị lại bác sĩ nội trú trong hệ thống đào tạo sau đại học

Trong lịch sử y học Việt Nam hiện đại, bác sĩ nội trú luôn được coi là một lực lượng đặc biệt. Đây là chương trình đào tạo sau đại học khắt khe nhất, tuyển chọn từ những sinh viên xuất sắc, học tập và làm việc ba năm liên tục trong bệnh viện, chịu áp lực cao cả về chuyên môn lẫn thực hành. Không ít người sau này trở thành các giáo sư, chuyên gia đầu ngành, hay trực tiếp giữ trọng trách lãnh đạo ngành y. Trong đại dịch Covid-19, hàng nghìn bác sĩ nội trú cũng đã xông pha ở tuyến đầu, góp phần quan trọng vào cuộc chiến chống dịch.

Đào tạo bác sĩ nội trú tại VinUni. Ảnh: VinUni
Đào tạo bác sĩ nội trú tại VinUni. Ảnh: VinUni

Tuy nhiên, so với nhu cầu nhân lực y tế, quy mô đào tạo bác sĩ nội trú vẫn còn rất nhỏ. Khoảng cách này cho thấy lực lượng được đào tạo khắt khe như nội trú còn chưa đủ sức bù đắp thiếu hụt nhân lực y tế toàn hệ thống.

Về nguyên nhân, theo TS.BS Quan Thế Dân - Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Trí Đức Thành, không chỉ nằm ở con số hạn chế, mà còn bắt nguồn từ sự rối rắm của cả hệ thống đào tạo bác sĩ sau đại học. Ông cho rằng, để hiểu rõ vị trí của bác sĩ nội trú, cần nhìn lại quá trình hình thành các hệ đào tạo này.

Cụ thể, từ năm 1974, Đại học Y Hà Nội lần đầu tiên mở chương trình nội trú bệnh viện theo mô hình Pháp. Nhưng chỉ một năm sau, năm 1975, ngành y đưa ra hệ bác sĩ chuyên khoa cấp I và cấp II theo mô hình Liên Xô: chuyên khoa I tương đương phó tiến sĩ, chuyên khoa II tương đương tiến sĩ. Đến năm 1998, theo Luật Giáo dục, lại bổ sung thêm thạc sĩ và tiến sĩ y khoa.

“Thật là rối và loạn bằng cấp” - vị chuyên gia nhận xét. Sau nhiều điều chỉnh, hệ thống được sắp xếp thành hai nhánh: chuyên khoa I, II thiên về thực hành; còn thạc sĩ, tiến sĩ thiên về nghiên cứu. Dù vậy, trong một xã hội trọng bằng cấp, nhiều bác sĩ vẫn chuộng con đường thạc sĩ - tiến sĩ hơn, vì đây là hệ thống bằng cấp quốc gia, giúp tiến lên các học hàm phó giáo sư, giáo sư. Hệ quả là chất lượng không đồng đều. Các chương trình chuyên khoa I, II nhiều nơi tuyển sinh ồ ạt, học viên ít thực hành. Thạc sĩ, tiến sĩ cũng gặp những vấn đề về chất lượng luận văn, luận án. Giữa bối cảnh ấy, mô hình đào tạo bác sĩ nội trú vẫn giữ được uy tín. “Trong ngành y, quý nhất là thực hành. Lý thuyết có thể học ở nhiều nơi, nhưng tay nghề chỉ có thể trưởng thành từ bệnh nhân, từ thầy, từ bệnh viện” - TS.BS Quan Thế Dân khẳng định.

Bác sĩ nội trú, trong suốt ba năm, được rèn cặp trực tiếp, sống trong môi trường bệnh viện 24/7, trải qua hàng nghìn ca bệnh, dần trở thành lực lượng lao động chính tại các khoa phòng. Sau khi tốt nghiệp, họ có thể nhận đồng thời ba văn bằng: bác sĩ nội trú, bác sĩ chuyên khoa I và thạc sĩ y khoa. Đó là lợi thế đặc biệt, khiến bác sĩ nội trú được các cơ sở y tế coi trọng, được xã hội tin tưởng.

Chính vì vậy, theo TS.BS Quan Thế Dân, cần định vị lại bác sĩ nội trú trong hệ thống đào tạo sau đại học. Đây phải là chuẩn mực bắt buộc, chứ không chỉ là một lựa chọn hẹp dành cho một số ít. Quan trọng hơn, nội trú không thể tiếp tục tồn tại như hiện nay: vừa phải đóng học phí, vừa không được hưởng lương, trong khi gánh vác khối lượng công việc tương đương bác sĩ chính thức. “Nếu không có chính sách công bằng, chúng ta sẽ khó thu hút, khó giữ chân những người giỏi” - ông Dân nhấn mạnh.

Đầu tư cho hiền tài và định hướng chính sách dài hạn

Nếu TS.BS Quan Thế Dân nhấn mạnh cần định vị lại mô hình nội trú để trở thành chuẩn mực bắt buộc, thì ở góc nhìn người trong cuộc, điều khiến nhiều bác sĩ trẻ trăn trở nhất lại là bài toán học phí.

Hiện nay, mỗi bác sĩ nội trú phải đóng trung bình 70–80 triệu đồng mỗi năm, có nơi tới 900 triệu đồng, tổng cộng hàng trăm triệu đồng cho ba năm học. Con số này là gánh nặng không nhỏ với một sinh viên vừa tốt nghiệp đại học, trong khi họ lại không được hưởng lương như đồng nghiệp theo học chuyên khoa.

BS Phạm Thế Thạch - Phó Giám đốc Trung tâm Hồi sức tích cực (Bệnh viện Bạch Mai) nhận định: “Bác sĩ nội trú không phải là sinh viên thuần túy. Họ đã có bằng y khoa, dưới sự hướng dẫn của các thầy cô tham gia điều trị từ bệnh nhân nhẹ đến nặng, thậm chí đã trực tiếp tham gia chống dịch Covid-19 như một chiến binh thực sự. Lịch làm việc 12-16 giờ mỗi ngày, trực đêm liên tục, nhưng họ không thể đi làm thêm. Xem họ như “sinh viên đóng học phí” là một nghịch lý.”

Ông phân tích, gánh nặng tài chính đang làm giảm chất lượng đào tạo. Trước đây, bác sĩ nội trú được miễn học phí và có trợ cấp tối thiểu hằng tháng. Chính sách này nay đã bị cắt bỏ, trong khi họ vừa phải học, vừa trực đêm, gần như không có thu nhập, ngoại trừ một số bệnh viện có chính sách hỗ trợ riêng.

BS Thạch cũng so sánh với chuẩn quốc tế, ở nhiều nước, bác sĩ nội trú được coi là nhân viên y tế thực thụ, được trả lương, miễn học phí và có trợ cấp trực. Tại Mỹ, thu nhập của một bác sĩ nội trú có thể từ 40.000-60.000 USD/năm, bằng khoảng một phần tư lương của bác sĩ chính thức.

Theo chuyên gia, miễn học phí cho bác sĩ nội trú không phải là đặc quyền, mà là một khoản đầu tư thiết yếu cho sức khỏe cộng đồng.

Thực tế, ở tầm chính sách vĩ mô, những bước đi đầu tiên đã cho thấy, đây là vấn đề rất được Đảng và Nhà nước quan tâm. Nghị định số 238/2025/NĐ-CP ngày 3/9/2025 của Chính phủ quy định về chính sách học phí, miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập và giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo đã quy định miễn học phí cho một số ngành đặc thù như Hồi sức cấp cứu, Y pháp, Truyền nhiễm. Tuy nhiên, phạm vi còn rất hẹp. Nhiều ý kiến cho rằng cần mở rộng cho toàn bộ hệ nội trú, bởi đây mới chính là lực lượng then chốt trong việc nâng cao chất lượng nhân lực y tế.

Gần đây nhất, vấn đề này đã được đặt ra trong Nghị quyết 72-NQ/TW của Bộ Chính trị với quan điểm chỉ đạo: “Quan tâm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng, cân đối, đủ phẩm chất đạo đức, năng lực, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ và sự hài lòng của người dân; có chính sách ưu đãi, đãi ngộ đặc biệt trong suốt quá trình từ đào tạo, tuyển dụng, sử dụng, phát huy năng lực, thế mạnh của đội ngũ cán bộ y tế”.

Trao đổi xung quanh vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan nhấn mạnh, nhân lực y tế phải được coi là trụ cột, được đào tạo, sử dụng và đãi ngộ theo cơ chế đặc biệt. Bộ trưởng cho biết, thời gian tới ngành y tế sẽ nghiên cứu mở rộng chính sách hỗ trợ học phí, học bổng cho sinh viên y khoa - đặc biệt là những người cam kết phục vụ ở tuyến cơ sở, vùng khó khăn. Song song, sẽ có chính sách ưu đãi vượt trội về phụ cấp.

Những định hướng này cho thấy, việc giải quyết bài toán tài chính cho bác sĩ nội trú không chỉ là ưu đãi cho một nhóm học viên, mà là bước đi trong chiến lược tổng thể phát triển nhân lực y tế. Miễn học phí, hỗ trợ học bổng, nâng phụ cấp… vừa giúp chia sẻ gánh nặng với người học, vừa góp phần điều chỉnh lại sự mất cân đối nhân lực. Đây chính là cách để biến đội ngũ bác sĩ nội trú - vốn đã chứng minh giá trị qua nhiều thế hệ - trở thành trụ cột bền vững của y tế Việt Nam trong giai đoạn mới.

Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan: Nghị quyết 72-NQ/TW chú trọng y đức và chính sách đãi ngộ
Đội ngũ cán bộ y tế luôn là trung tâm của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Đảng, Nhà nước và Chính phủ nhiều lần khẳng định, đầu tư cho y tế chính là đầu tư cho phát triển. Nghị quyết số 72-NQ/TW đã đưa ra nhiều giải pháp mang tính đột phá về nhân lực, y đức và đặc biệt là chính sách đãi ngộ.
Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tập trung vào ba nhóm giải pháp lớn. Thứ nhất, về đào tạo, sẽ phát triển một số cơ sở đào tạo sức khỏe chất lượng cao ngang tầm khu vực, đồng thời mở rộng chính sách hỗ trợ học phí, học bổng cho sinh viên y khoa, nhất là những người cam kết phục vụ ở tuyến cơ sở, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo.
Thứ hai, về chính sách đãi ngộ, cần cơ chế đủ mạnh, thiết thực để cán bộ y tế yên tâm gắn bó lâu dài. Nghị quyết xác định nghề y là nghề đặc biệt, phải được đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt. Thứ ba, về môi trường hành nghề và y đức, Bộ Y tế sẽ tiếp tục hoàn thiện quy định về tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp. Mục tiêu là xây dựng môi trường an toàn, nhân văn, nơi cán bộ y tế được bảo vệ và tôn trọng, từ đó lan tỏa niềm tin trong xã hội đối với người thầy thuốc.

Đức Trân