Dịch bạch hầu tại khu vực Tây Nguyên đang diễn biến phức tạp với việc ghi nhận gần 70 ca lây nhiễm chỉ trong hơn một tháng qua. Bệnh bạch hầu được ghi nhận ở mọi lứa tuổi, đặc biệt có những trường hợp bệnh nhi mắc bạch hầu và tử vong đã tiêm vaccine.
Bệnh truyền nhiễm nguy hiểm
Từ đầu năm đến nay, 4 tỉnh Tây Nguyên đã ghi nhận 69 trường hợp dương tính với bạch hầu, trong đó có 3 trường hợp đã tử vong. Cụ thể, Kon Tum có 24 trường hợp dương tính, Gia Lai 16 trường hợp, Đắk Lắk 1 trường hợp, Đắk Nông 28 trường hợp.
Theo PGS.TS Trần Đắc Phu, nguyên Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Cố vấn cao cấp Trung tâm Đáp ứng khẩn cấp sự kiện Y tế công cộng (Bộ Y tế), tại Việt Nam, kể từ những ca bệnh cuối cùng thập niên 80 thế kỷ trước, cho đến năm 2015 mới bùng phát trở lại dịch bạch hầu tại Quảng Nam và mới đây tiếp tục bùng phát tại các tỉnh Tây Nguyên.
Theo ông Phu, bạch hầu là bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi khuẩn bạch hầu gây ra. Bất cứ người nào tiếp xúc với mầm bệnh đều có thể bị lây nhiễm. Người có khả năng miễn dịch thấp dễ bị bệnh hơn. Thông thường trẻ em từ một đến 10 tuổi dễ mắc bệnh nhiều nhất do không còn kháng thể từ mẹ truyền sang.
Vi khuẩn C. diphtheriae gây nên bệnh bạch hầu. Khi vi khuẩn này xâm nhập vào hầu họng những người chưa có miễn dịch chống bệnh bạch hầu, chúng sẽ sinh sôi ở vùng hầu họng, tiết ra độc tố làm chết tổ chức, tạo thành các mảng màu trắng. Độc tố bạch hầu cũng có thể vào máu gây nhiễm độc toàn thân. Người bệnh bạch hầu ho, hắt hơi sẽ làm bắn ra những giọt nhỏ mang vi khuẩn. Nếu một người chưa có miễn dịch với bệnh bạch hầu hít phải những giọt này thì có thể mắc bệnh. Một số rất hiếm các trường hợp có thể lây truyền trực tiếp qua tiếp xúc. Thường một người bệnh nếu không được điều trị có thể gây phát tán vi khuẩn trong vòng 2 tuần, thậm chí có thể đến 4 tuần. Một số ít người mang vi khuẩn mạn tính có thể phát tán mầm bệnh đến tận 6 tháng.
Dịch bạch hầu bùng phát không theo mùa rõ rệt, chỉ cần có nguồn bệnh sẽ lây nhiễm. Khi bệnh nhân ho hoặc hắt hơi, vi khuẩn phát tán ra xung quanh theo đường không khí và lây bệnh cho người lành. Ngoài ra tiếp xúc qua da khi bị trầy xước cũng dẫn đến lây lan vi khuẩn bạch hầu.
Triệu chứng bệnh bạch hầu chủ yếu là viêm họng, có lớp màng giả màu trắng do các tế bào bị viêm bám vào trong vòm họng. Nếu không điều trị, màng này lan rộng lấp đầy đường hô hấp khiến bệnh nhân ngạt thở. Không giống như các vi khuẩn thông thường khác, vi khuẩn bạch cầu gây viêm họng, nóng, sốt và nguy hiểm nhất là độc tố của vi khuẩn có thể theo máu tác động lên các cơ quan chính của cơ thể làm viêm tim, viêm thận. Thậm chí vi khuẩn tác dụng lên hệ thần kinh làm liệt tay, liệt chân, mắt lé, giọng nói của người bệnh có thể thay đổi do bị ngọng thanh quản.
Tỉ lệ tử vong cao
Theo PGS. TS Nguyễn Văn Kính - nguyên Giám đốc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương, trung bình, sau khi hít phải vi khuẩn 2-5 ngày, người bệnh sẽ phát bệnh. Tùy thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh, sẽ có các biểu hiện khác nhau: Bệnh bạch hầu mũi trước: Bệnh nhân sổ mũi, chảy mũi ra chất mủ nhầy đôi khi có lẫn máu. Khi khám thầy thuốc có thể thấy màng trắng ở vách ngăn mũi. Thể bệnh này thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít thâm nhập vào máu.
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Văn Kính, hai thể thường gặp nhất của bệnh bạch hầu là bạch hầu họng và thanh quản, khi màng giả lan rộng có thể gây tắc nghẽn đường thở. Độc tố của vi khuẩn bạch hầu có thể tác động lên các cơ quan chính của cơ thể gây viêm tim, viêm thận, liệt tay, chân, mắt lé, thay đổi giọng nói do bị ngọng thanh quản. Nếu độc tố mạnh, hấp thu lượng lớn có thể gây ra những biểu hiện nhiễm độc như phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê và có thể tử vong trong 6-10 ngày nếu không được điều trị kịp thời. Các trường hợp tử vong còn lại theo PGS.TS Nguyễn Văn Kính, Giám đốc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương, chủ yếu do các biến chứng viêm cơ tim, viêm thận do vi khuẩn theo máu tấn công các cơ quan này.
Biến chứng viêm cơ tim có thể xuất hiện sớm ở những ngày đầu của bệnh nhưng có thể muộn hơn 3 - 5 tuần dù bệnh đã phục hồi. Khi viêm cơ tim sẽ gây tổn thương hệ thần kinh dẫn truyền cơ tim khiến bệnh nhân tử vong đột ngột do trụy tim mạch. Biến chứng ở giai đoạn đầu thường nặng hơn, tiên lượng rất dè dặt, điều trị khó khăn. Ngoài ra, bệnh cũng có thể dẫn đến thoái hóa thận, hoại tử ống thận, chảy máu lớp tủy và vỏ thượng thận hoặc tác dụng lên hệ thần kinh làm liệt tay chân, nói ngọng hoặc giọng nói thay đổi.
Theo các chuyên gia y tế, hiện nay, vaccine vẫn là biện pháp hiệu quả trong phòng bệnh cho trẻ nhỏ. Vaccine phòng bạch hầu thường được tích hợp dạng vaccine 5 trong 1 như Combe Five, Quinvaxem. Tất cả trẻ sinh ra sẽ được tiêm phòng đầy đủ theo chương trình tiêm phòng mở rộng với 4 mũi. Trẻ được tiêm phòng đầy đủ thì thông thường sẽ có kháng thể với vi khuẩn bạch hầu và có thể bảo vệ trẻ khỏi nhiễm vi khuẩn. Tuy nhiên, có một số cơ địa đặc biệt, dù đã tiêm phòng đầy đủ, nhưng cơ thể vẫn không đáp ứng đủ nồng độ kháng thể để bảo vệ.
Theo TS BS Vũ Minh Điền, Trưởng phòng Quản lý chất lượng, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới trung ương, bệnh bạch hầu là bệnh lây qua đường hô hấp, qua giọt bắn, có thể lây qua đường tiếp xúc với dịch tiết của người bệnh bị bạch hầu và vô tình đưa lên niêm mạc mũi, mắt, miệng… Chúng ta có thể phòng bệnh bạch hầu trong vùng có dịch bằng cách dự phòng cơ bản, như đeo khẩu trang, giữ khoảng cách với người bệnh, thường xuyên vệ sinh tay bằng các thuốc sát khuẩn, vệ sinh bề mặt theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
Bệnh bạch hầu họng và amiđan: Bệnh nhân mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2-3 ngày, sẽ xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amiđan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng, khi màng giả lan rộng có thể gây tắc nghẽn đường thở. Thường thể bệnh này các độc tố ngấm vào máu nhiều và có thể gây tình trạng nhiễm độc toàn thân. Một số bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ làm cổ bạnh ra như cổ bò.