Vùng sinh thái dãy Trường Sơn là một trong 7 vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam bởi thế mạnh về sự phong phú, độc đáo của tài nguyên đa dạng sinh học. Đây còn là vùng đang có 40 dân tộc anh em, trong đó có khoảng 30 dân tộc bản địa. Vì vậy, theo giới chuyên gia, bảo tồn đa dạng sinh học trên dãy Trường Sơn cũng chính là bảo vệ phát huy các nền văn hóa đặc sắc của 40 dân tộc anh em trong phát triển bền vững.
Cần quản lý bảo tồn các loài và các hệ sinh thái đặc trưng của dãy Trường Sơn, đặc biệt là sao la
1. Biến đổi khí hậu (BĐKH) và sự tác động của con người đã đe dọa sự tồn tại của nhiều loài động, thực vật ở dãy Trường Sơn. Tuy nhiên, giới chuyên gia vẫn thống nhất cho rằng, dãy Trường Sơn là hành lang xanh tự nhiên đối với các giống loài sinh vật. Với những gì còn lại, giá trị đa dạng sinh học trên dãy Trường Sơn vẫn làm ngạc nhiên nhiều nhà nghiên cứu.
Cụ thể, giá trị này được hiểu theo khái niệm đa dạng sinh học của Công ước Đa dạng sinh học gồm 4 nội dung: đa dạng gen, đa dạng loài, đa dạng sinh thái và đa dạng sử dụng. Tuy nhiên việc kiểm kê đa dạng học dãy Trường Sơn vẫn cần được tiếp tục đẩy mạnh để làm rõ kho tài nguyên quý giá không chỉ của 3 nước Đông Dương mà của cả thế giới. Cho đến nay chưa có nhiều nghiên cứu đa dạng sinh học dãy Trường Sơn đặc biệt bên phía Lào và Campuchia.
Dãy Trường Sơn có quy mô thuộc loại lớn trên thế giới, với chiều dài nếu chỉ tính từ sông Cả đến giáp Miền Đông Nam Bộ đã khoảng 1.100 km. Qua nghiên cứu, các chuyên gia cũng nhận thấy, với chiều dài 1.100 km kéo dài theo kinh tuyến, Trường Sơn có chế độ chuyển mùa liên tục theo chiều dài dãy núi.
Các chuyên gia chỉ ra, ngoài sinh vật bản địa, Trường Sơn còn là nơi đón nhận các luồng sinh vật di cư từ Vân Nam, Tây Tạng, từ Thái Lan và cả từ các đảo trên Biển Đông. Các hệ sinh thái rừng mưa nhiệt đới gió mùa thường xanh trên địa hình đá vôi karst ở Trường Sơn Bắc, các hệ sinh thái rừng khộp ở Trường Sơn Nam là những hệ sinh thái đặc thù không nơi nào có trên toàn thế giới. Dãy Trường Sơn không chỉ là nguồn dự trữ gen và nguồn thiên địch của các sinh cảnh đồng bằng ven biển mà còn là nơi tiếp nhận các loài sinh vật lạ xâm nhập, các nguồn gen ngoại lại. Chính mối tương tác này cũng góp phần tạo ra sự đa dạng sinh học Trường Sơn, cả trong nhóm cây trồng và vật nuôi lẫn trong nhóm sinh vật hoang dại, cả trong nhóm sinh vật cạn lẫn thủy sinh vật mà trong đó nhiều nhóm là nguồn lợi kinh tế quý giá.
Chính vì vậy, khi vấn đề BĐKH đang ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều khu vực, thì bảo vệ đa dạng sinh học trên dãy Trường Sơn cần được quan tâm nhiều hơn, với những giải pháp thiết thực hơn.
2.Tại hội thảo Bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn lần thứ 7 nhìn từ góc độ cộng đồng vừa diễn ra tại Hà Nội ngày 19-10, TS Phạm Đức Thi - Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Khí tượng thủy văn và Môi trường đã đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn đa dạng sinh học phục vụ phát triển bền vững dãy Trường Sơn. Theo TS Thi, cần thống nhất quan điểm và xây dựng chiến lược tổng hợp phát triển bền vững dãy Trường Sơn; tổ chức điều tra, đánh giá tổng hợp toàn dãy Trường Sơn, xây dựng quy hoạch phát triển cho toàn khu vực; chú trọng quản lý bảo tồn các loài và các hệ sinh thái đặc trưng của dãy Trường Sơn, đặc biệt là sao la và hệ sinh thái rừng khộp; điều tra, đánh giá và khai thác tri thức bản địa đặc sắc của các dân tộc phục vụ phát triển bền vững dãy Trường Sơn; thành lập một cơ quan, tổ chức nghiên cứu, quản lý phù hợp.
Trong khi đó, TS Lê Trần Chấn- Trung tâm Đa dạng và An toàn sinh học (Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) đề xuất, cần gắn nhiệm vụ bảo tồn cây quý hiếm với việc nâng cao đời sống tăng thu nhập góp phần giúp người dân xóa đói giảm nghèo; làm tốt công tác tuyên truyền để người dân hiểu và biết giá trị những đối tượng cần bảo tồn, nhận dạng các đối tượng quý hiếm cần bảo tồn để hạn chế việc xâm hại; cần có sự đồng thuận, tạo điều kiện giúp đỡ và sẵn sàng chia sẻ khó khăn, chỉ đạo kịp thời để giải quyết mọi khó khăn khi thực thi nhiệm vụ của cấp lãnh đạo chính quyền cơ sở…
Còn GS.TSKH Đặng Huy Huỳnh- Anh hùng Đa dạng sinh học ASEAN nhìn nhận: Công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam nói chung và trên vùng sinh thái dãy Trường Sơn nói riêng chỉ đạt được thành công như mong muốn của Đảng, Chính phủ, của nhân dân khi có được sự hưởng ứng, tham gia có trách nhiệm của cộng đồng bản địa cùng với đảm bảo các lợi ích thiết thực cho cộng đồng thông qua công tác bảo tồn đa dạng sinh học - với quan điểm “Lợi ích vừa là động lực - vừa là mục tiêu của sự nghiệp bảo tồn đa dạng sinh học”.
Theo GS Huỳnh, để bảo tồn đa dạng sinh học dãy Trường Sơn, cần đề ra các chính sách sử dụng bền vững tài nguyên đất, nước, rừng và đa dạng sinh học. Đồng thời cần có chương trình nghiên cứu cơ bản “Điều tra phát hiện, thống kê - phân tích đánh giá trên cơ sở khoa học tự nhiên, khoa học nhân văn của các tri thức bản địa của cộng đồng trong bảo tồn - sử dụng đa dạng sinh học trong quá khứ - hiện tại”; tổ chức đánh giá - xác nhận - khen thưởng động viên kịp thời đối với cộng đồng địa phương trong việc đóng góp công sức, trí tuệ trong việc bảo vệ đa dạng sinh học có hiệu quả; đảm bảo lợi ích cho cộng đồng trên dãy Trường Sơn từ các hoạt động kinh tế - phúc lợi xã hội; thường xuyên nâng cao năng lực cho cán bộ địa phương đồng thời nâng cao nhận thức cho cộng đồng về giá trị đích thực của các dịch vụ hệ sinh thái và đa dạng sinh học để người dân chủ động và tích cực hơn trong công cuộc xóa đói giảm nghèo.
Cũng cần có chủ trương rõ ràng, minh bạch trong việc thu hút lực lượng lao động địa phương có trình độ - năng lực tham gia vào lực lượng kiểm lâm ở các khu bảo tồn xuyên Vườn quốc gia; các doanh nghiệp trong nước - doanh nghiệp vừa và nhỏ cần đầu tư - phát huy tiềm năng độc đáo của đa dạng sinh học trong kinh doanh; tạo việc làm cho phụ nữ và người nghèo có cơ hội tiếp cận và hưởng lợi từ việc sử dụng khôn khéo đa dạng sinh học trên dãy Trường Sơn; kêu gọi sự ủng hộ và chia sẻ thông tin kinh nghiệm sử dụng khôn khéo đa dạng sinh học từ cộng đồng ASEAN; khuyến khích sự gần gũi, gắn kết cộng đồng với đa dạng sinh học vì sự phát triển bền vững.