Bệnh chốc lở là tình trạng nhiễm khuẩn da, rất dễ lây, gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng nhiều nhất là trẻ em và người già. Chốc lở thường xuất hiện trên mặt, nhất là quanh mũi và miệng. Bệnh xảy ra do nhiễm khuẩn qua các vết thương hay côn trùng đốt hoặc trên da bình thường. Mùa hè ra nhiều mồ hôi nên nguy cơ chốc lở càng tăng.
Bổ sung rau củ quả để phòng bệnh
Biểu hiện của bệnh
Mùa hè nắng nóng, một bệnh nhân chốc lở thường có các triệu chứng sau: Có vết loét đỏ trên da, nhanh chóng vỡ, sau đó hình thành một lớp vỏ màu vàng nâu. Bệnh nhân rất ngứa. Vết chốc thường không đau, có dịch tiết lỏng chứa đầy mụn nước. Những ca bệnh nặng, bệnh nhân bị đau đớn, chất lỏng hoặc vết loét đầy mủ tiến triển dần thành vết loét sâu. Người ta phân biệt mấy dạng chốc lở như sau:
Chốc lở truyền nhiễm là thể bệnh hay gặp nhất, có các triệu chứng: Lúc đầu là một số nốt mụn đỏ trên mặt, thường quanh mũi và miệng. Các nốt mụn nhanh chóng vỡ ra, chảy dịch hoặc mủ và đóng vảy màu nâu. Cuối cùng vảy sẽ bong ra, để lại một vết đỏ nhưng không gây sẹo. Các mụn có thể ngứa nhưng không đau. Trẻ em bị bệnh không sốt nhưng thường bị sưng hạch ở quanh vùng có vết chốc. Vết chốc lở rất dễ lây lan sang các vùng da lành khác nếu bị dây dịch của vết chốc.
Chốc lở dạng phỏng, chủ yếu xảy ra ở trẻ dưới 2 tuổi, triệu chứng là: Những nốt phỏng nước chứa đầy dịch và không đau, thường thấy ở thân mình, cánh tay và cẳng chân. Da xung quanh nốt phỏng đỏ và ngứa nhưng không loét. Các nốt phỏng sẽ vỡ và đóng vảy màu vàng, thường lâu liền hơn các dạng chốc lở khác.
Thể mụn mủ, là thể nặng nhất trong đó nhiễm khuẩn ăn sâu vào lớp bì, với các triệu chứng: các nốt mụn đau chứa đầy dịch hoặc mủ biến thành vết loét sâu, thường ở cẳng chân và bàn chân. Trên vết mụn có vảy dày, cứng màu vàng xám. Thường sưng hạch ở xung quanh vết chốc.
Biến chứng của chốc lở là: viêm cầu thận có thể phát triển sau khi bị chốc lở do liên cầu khuẩn. Bệnh viêm cầu thận xảy ra sau khi phát chốc lở khoảng 2 tuần. Triệu chứng gồm: phù mặt, nhất là phù mi mắt, đi tiểu ít, có máu trong nước tiểu, tăng huyết áp, cứng khớp và đau khớp. Bệnh thường gặp ở trẻ em từ 6 - 10 tuổi. Ở người lớn, nhất là người già, các triệu chứng thường nặng hơn và ít có khả năng phục hồi hoàn toàn.
Phương pháp điều trị
Việc điều trị chốc lở gồm biện pháp tại chỗ và toàn thân. Tại chỗ cần giữ cho da sạch có thể giúp chữa lành bệnh nhiễm khuẩn nhẹ. Có thể dùng thuốc mỡ mupirocin hoặc retapamulin bôi lên tổn thương ngày 2- 3 lần. Điều trị toàn thân: cho bệnh nhân uống thuốc kháng sinh (theo phác đồ của thầy thuốc). Nếu bệnh nhẹ có thể ngâm vùng da bị tổn thương với giấm theo tỷ lệ pha là 1 muỗng canh dấm trắng trong 1 lít nước, ngâm trong thời gian 20 phút, để dễ dàng loại bỏ các vảy bám trên vết chốc. Sau đó bôi thuốc mỡ kháng sinh 3 lần/ngày. Bệnh nhân cần tránh gãi hoặc chạm vào các vết loét để giúp vết thương mau lành. Nên mặc quần áo không dính đến vùng tổn thương để chốc lở không lan ra vùng da lành khác.
Cách phòng bệnh
Chốc lở nếu nặng và không được điều trị kịp thời có thể xảy ra biến chứng nặng gây tử vong. Vì vậy việc phòng bệnh trở nên rất quan trọng. Các biện pháp phòng bệnh hiệu quả là: Luôn luôn giữ cho da sạch sẽ bằng cách tắm rửa hàng ngày với nước sạch. Điều trị tích cực vết thương, vết xước, vết côn trùng cắn trên da bằng cách rửa sạch vết thương, dùng thuốc sát khuẩn, mỡ kháng sinh để ngăn ngừa nhiễm khuẩn. Bệnh nhân chốc lở cần được cách ly ở phòng riêng, dùng riêng các đồ dùng sinh hoạt như chăn màn, khăn tắm, chậu rửa mặt… để tránh lây lan cho người khác.