Biển của ta, trời của ta!
Gần hết đời người lênh đênh gắn bó cùng biển, ông hiểu biển như một người bạn tri âm, tri kỷ. Với ông, biển là nhà, là một phần máu thịt thiêng liêng không thể đoạn đành. Ông vẫn thường nói với đám cháu con của mình rằng: Dù có khó khăn đến mấy cũng phải ráng giữ lấy nghề tổ truyền, cái nghề đã nuôi sống biết bao đời người dân làng vạn chài này! Và hơn thế nữa, phải vươn khơi, phải đi, đi để khẳng định, đây là biển của ta, trời của ta…
Vì biển là của ta, trời của ta…
Chuyến đi biển cuối cùng
Nhà ông Nguyễn Thừa Đa nằm ngay bên mép sóng cảng cá Cửa Hới (thuộc phường Quảng Tiến, thị xã Sầm Sơn, Thanh Hóa) - nơi có những con thuyền ngày ngày nối đuôi nhau vào ra tấp nập. Ông cũng chẳng nhớ, mình đã theo cha và các bạn chài lênh đênh theo từng mùa biển động tự bao giờ. Chỉ biết rằng, khi ông đủ sức khiêng vài tay lưới xuống thuyền, cha đã đem ông theo và truyền hết cho ông những kinh nghiệm đi biển. Giặc giã kéo qua, ông cùng đám bạn cùng trang lứa, xếp lưới, chèo, cầm súng ra trận. Tan giặc, đất nước thái hòa, ông lại trở về thay cha vung chèo ra khơi và cứ thế gắn đời mình với biển cho đến tận bây giờ.
Ông bảo, đây sẽ là chuyến vươn khơi cuối cùng trong đời ông. Đi qua hơn mấy chục mùa gió chướng, sức ông giờ đã không còn đủ để chống chọi với những mùa biển động, cơ bắp đã không còn dẻo dai để kéo những mẻ lưới nặng cá. Như sợ không kìm nén được xúc động, ông với chiếc điếu cày, kéo một hơi dài rồi phăm phăm đi về phía bến cảng, nơi có 2 đôi tàu lớn của gia đình đang hoàn tất nốt khâu chuẩn bị cho chuyến vươn khơi trong đêm.
Hoàng hôn buông nhanh trên cảng, chút nắng cuối ngày hắt lên sóng tạo thành đám lân tinh lấp lánh đuổi nhau chạy ra tít phía xa, các thuyền viên cũng hối hả vận chuyển dầu, đá lạnh và nhu yếu phẩm xuống tàu. Cả bến cảng rực sáng và náo động như thành phố buổi lên đèn. Tiếng máy nổ râm ran, tiếng thử bộ đàm… có khoảng gần trăm con tàu công suất từ 90 – 450CV lần lượt nối đuôi nhau rời bến. Ông cũng hối bạn chài kéo dây neo rồi tự tay cầm lái, cẩn thận đưa còn tàu chầm chậm ra khơi.
Vài thuyền viên ngực trần cuộn cơ bắp, da rám nắng ngả mình trên boong, tranh thủ ngủ lấy sức cho những mẻ lưới đầu tiên trong đêm. Tàu lắc lư theo từng nhịp sóng, gió biển lồng lộng thổi làm mớ tóc của ông bay lòa xòa trên trán, khuôn mặt ông lúc này thư thái đến lạ. Cứ nhìn cái cách ông lướt tay trên vô lăng điều khiển tàu, như vỗ về, nâng niu tôi cũng có thể hình dung ra tình yêu của ông giành cho nghề biển cực nhọc này nhiều đến nhường nào.
Áng chừng được khoảng gần 10 hải lý, các đội tàu bắt đầu tách nhau, tỏa ra nhiều hướng, chỉ còn đôi tàu của ông nhằm hướng vùng ngư trường Vịnh Bắc Bộ thẳng tiến. Tiếng máy nổ đều đặn tan vào biển đêm… Con trai ông, anh Nguyễn Thừa Hải vừa pha chè vừa nói nhỏ chỉ đủ cho tôi nghe: “Tôi can mãi nhưng ông không chịu ở nhà, cứ đòi đi chuyến này cho bằng được. Thôi thì chiều cụ chuyến cuối cùng! Đấy rồi anh xem, thể nào nào lát nữa nói chuyện với anh cũng khóc, trông rắn rỏi vậy thôi nhưng ông yếu lòng lắm” – nói rồi anh Hải bước lại thay lái, ông cũng ngần ngừ đôi chút rồi trao lái cho con.
Niềm vui của người trên bờ khi tàu nặng cá về bến.
Vừa chiêu ngụm chè đặc, ông vừa vui vẻ: “Nếu anh mệt thì vào trong khoang ngủ lấy vài khắc, khi nào buông lưới tôi sẽ gọi. Nhưng thôi, ngồi đây nói chuyện với tôi, mấy khi được lênh đênh giữa biển trời thế thế này. Nghề biển cực nhưng cũng có cái thú tiêu dao của nó. Có lẽ, cái thú ấy đã ăn vào máu của những người dân biển như tôi mất rồi, không bỏ được!” Rồi ông kể: Ngày xưa nghề biển cực nhọc, chất chứa hiểm nguy, ngày nay vẫn vậy. Đời cha ông đi biển bằng bè, mảng thô sơ, biển yên sóng lặng thì dân biển được nhờ nhưng cũng chỉ cần một cơn thịnh nộ của biển cả, có thể cả một làng chài nghèo sẽ trắng khăn tang. Nhưng bao đời nay rồi, biển giận dữ rồi lại vỗ về, ôm ấp chở che. Lớp người này này gối lớp người kia, lớn lên bằng sự nuôi nấng, cưu mang của biển.
Đất nước đổi mới, người ngư dân có điều kiện được vay vốn, đóng những con tàu lớn, hiện đại để vươn khơi, lợi nhuận từ nghề đi biển cũng khá lên trông thấy. Mặc dù hiểm nguy từ bão tố không còn nhiều đe dọa nhưng lại tiềm ẩn một mối họa lớn từ người láng giềng bên kia biên giới. Đội tàu của ông thì chưa từng va chạm với họ nhưng nhiều tàu bạn đã bị họ bắt, bị cướp hết ngư cụ, tôm cá, bị đe dọa tại vùng ngư trường truyền thống của mình… thấy mà ức lắm!
“Sau mỗi lần như vậy, tôi vẫn động viên các con và tàu bạn rằng: Khó khăn mấy cũng phải vươn khơi, bám biển. Biển của ta, trời của ta thì có gì phải sợ. Đi biển không chỉ riêng vì kế sinh nhai mà còn đi để khẳng định chủ quyền đất nước, lòng tự tôn của dân tộc. Huống gì từ ngàn năm trước, bao lớp cha ông ta đã phải đổ máu, hi sinh cả tính mạng để bảo vệ từng tấc sóng” – giọng ông trầm hùng hòa vào tiếng sóng đang vỗ vào thân tàu.
“Sau chuyến này, tôi sẽ giao cả hai đôi tàu lại cho các con! Giờ chúng nó đã đủ khôn lớn để gánh vác trọng trách thay cha. Nghề biển là vậy, ai rồi cũng đến lúc phải giã sóng, từ gió, biết là sẽ nhớ đến quặn lòng nhưng mình phải nhường biển lại cho đám trẻ thôi!” – Ông nói với tôi mà như đang nói với biển, giọng da diết, nghe như từ sâu thẳm có điều gì đó không đành đoạn. Rồi ông đứng dậy đi về phía mũi tàu, giấu những giọt nước mắt.
Nụ hôn giã biệt
Qua câu chuyện với ông, tôi cũng được biết: Năm nay có thể xem là một năm khó khăn đối với nghề biển của ngư dân Quảng Tiến. Nếu như năm ngoái, bằng thời điểm này, đôi tàu của ông có thể khai thác từ 100 – 120 tấn/tháng thì năm nay sản lượng chỉ đạt 1/10, tức là 15 tấn/1 đôi tàu/1 tháng, sau khi trừ hết mọi chi phí, mỗi đôi tàu chỉ thu về từ 50 – 70 triệu đồng.
Là người từng có thâm niên gắn bó với nghề biển, Bí thư Đảng ủy phường Quảng Tiến Vũ Đình Thịnh cũng không giấu được niềm trăn trở của mình trong đáy mắt, ông cho biết: Toàn phường hiện có 234 tàu cá đang khai thác tại nhiều ngư trường khác nhau trong cả nước. Tuy nhiên sản lượng từ đầu năm đến nay chỉ đạt khoảng 8.200 tấn, giảm 20% so với cùng kỳ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sản lượng giảm sút nhưng cơ bản vẫn là nguồn lợi hải sản có dấu hiệu bị cạn kiệt. Thêm vào đó số đông lao động nghề biển do gặp nhiều khó khăn, không thể tiếp tục đầu tư đi biển đã chuyển đổi nghề, số ít đi lao động xuất khẩu để phát triển kinh tế.
“Cái khó nhất của ngư dân hiện nay là tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng! Ngoài việc phải chịu lãi suất cao, người ngư dân phải gánh thêm các khoản “tiêu cực phí”, chế độ bảo hiểm. Theo chế độ 67 của Chính phủ, bảo hiểm của ngư dân là do phía Bảo hiểm Bảo Việt cấp, nhưng đến nay toàn phường mới chỉ triển khai được trên 18 chiếc, còn lại là do phía Bảo hiểm Toàn Cầu thực hiện vì gắn với nguồn vay. Trong khi đó, chế độ vay vốn ngân hàng theo chế độ 67 cho ngư dân còn tồn tại quá nhiều bất cập, vướng mắc” – ông Thịnh lo lắng.
Ông Đa trong một chuyến đi biển.
“Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng tín hiệu đáng mừng là năm nay người dân trong phường đã đóng mới và hoán cải thêm 12 chiếc tàu có công suất lớn, đủ sức vươn tới những ngư trường xa hơn như Hoàng Sa và Trường Sa, khó khăn mấy cũng phải bám biển chú ạ” – ông Thịnh phấn chấn. Ông còn cho tôi biết thêm: Để động viên ngư dân kiên cường bám biển, hàng năm phường đã tổ chức lớp tập huấn, tuyên truyền cho bà con về phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển đảo. Để hiệu quả hơn trong khai thác và tương trợ nhau trên biển, phương đã thành lập được 25 tổ Đoàn kết trên biển.
Chuyến đi biển cuối cùng của ông kết thúc sớm hơn thường lệ, phần vì tin cơn siêu bão đang tiến gần vào Biển Đông, phần anh Hải lo cho sức khỏe của ông nhưng đôi tàu của 2 cha con đã kịp kéo về những mẻ lưới nặng cá. Tôi bước lên bờ mà chân vẫn còn chênh chao bởi dư âm của sóng. Ông bước về phía mép sóng, chậm rãi cúi xuống xòe đôi bàn tay nứt nẻ, thô ráp vục vào con sóng đang vỗ vào bờ rồi đưa lên úp thật lâu vào khuôn mặt già nua của mình. Hình như ông đang hôn tạm biệt biển!