Phát biểu kết luận Hội nghị bàn giải pháp phát triển bền vững ngành hàng lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: Chúng ta phải phấn đấu trong 10-20 năm tới, hạt gạo do người nông dân và doanh nghiệp Việt Nam sản xuất ra sẽ đem lại những giá trị gia tăng tốt nhất dựa trên việc đáp ứng một cách tinh tế các nhu cầu và tiêu chuẩn phổ quát về dinh dưỡng và dược liệu, góp phần củng cố danh tiếng của một trong những nền văn minh nông nghiệp lâu đời nh
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tham quan cánh đồng mẫu ở An Giang.
Ngành lúa gạo và công cuộc đổi mới
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, vẫn đất đai ấy, vẫn con người đó nhưng mà trước Đổi mới, dân ta thiếu đói nghiêm trọng. Nhờ Đổi mới với một loạt chính sách quan trọng như Khoán 10, Chỉ thị 100, tự do lưu thông lương thực, đến nay chúng ta đã bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu hàng triệu tấn mỗi năm. Gạo Việt Nam đã đến 150 nước và vùng lãnh thổ, đưa tên tuổi Việt Nam đi khắp 5 châu.
“Tuy vậy, thống kê cho thấy, hiệu quả trồng lúa còn thấp, hay có thể nói là rất thấp. Kể cả sản xuất 3 vụ 1 năm, lãi gộp cao nhất cũng chưa đến 30 triệu đồng/ha/năm”, Thủ tướng nói. “Ngay ở vựa lúa lớn nhất cả nước, người nông dân trồng lúa bao đời nay cũng chỉ lấy công làm lãi”.
Sản xuất lúa sử dụng nhiều lao động, vật tư, sử dụng nhiều tài nguyên đất và nước, nông dân sản xuất quy mô nhỏ. Giá thành gạo cao hơn so với thế giới. Khả năng cạnh tranh kém, bán vào thị trường dễ tính, chưa qua chế biến sâu, chất lượng không đồng đều, hầu như không có tên tuổi nổi trội. Chưa có thương hiệu nổi tiếng và hiện bị lấn sân ngay cả thị trường trong nước.
“Mình nói xâm thực mặn ở ĐBSCL nhưng xâm thực gạo của các nước vào Việt Nam mới đáng sợ”, Thủ tướng bày tỏ và cảnh báo, các nước nhập khẩu gạo tăng cường trợ cấp nông nghiệp để tự túc sản xuất gạo.
Nhấn mạnh nông nghiệp Việt Nam luôn là trụ đỡ của nền kinh tế, Thủ tướng nêu rõ: Lúa gạo ở Việt Nam, đặc biệt ĐBSCL tiếp tục được khẳng định trong bảo đảm an ninh lương thực tầm quốc gia và quốc tế. Lúa gạo đóng vai trò quan trọng, không thể thay thế được trong nông nghiệp Việt Nam.
Điều này thể hiện qua việc đa số nông dân Việt Nam tham gia sản xuất lúa gạo, giải quyết việc làm, tạo thu nhập. Lúa gạo vẫn là một trong những loại nông sản chiến lược mà Việt Nam có lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh nông nghiệp. Nếu chúng ta sản xuất lớn, áp dụng công nghệ và quản lý phù hợp, kết hợp chế biến sâu, tiếp thị tốt thì hiệu quả kinh tế ngành lúa còn tăng nhiều lần, Thủ tướng nhấn mạnh. Về mặt sinh thái, môi trường thì khó cây trồng nào thay thế được sản xuất lúa trên quy mô lớn ở Việt Nam.
Từ phân tích này, Thủ tướng cho rằng, ngành lúa gạo Việt Nam đang đứng trước giờ G của công cuộc đổi mới, đòi hỏi một tư duy kiến tạo toàn diện từ nền tảng thể chế, chính sách, pháp luật đến cấu trúc vận hành, phương thức quản trị và công nghệ sản xuất.
Chính vì vậy, ngành lúa gạo Việt Nam cần một tầm nhìn mới, một tầm nhìn đi kèm với hoạch định chiến lược, phù hợp với xu thế toàn cầu hóa để hạt gạo Việt Nam đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở châu Á và thế giới, từ đó đem lại giá trị gia tăng tốt nhất cho người nông dân trồng lúa ở Việt Nam cũng như các doanh nghiệp làm lúa gạo.
Cần cơ giới hóa nông nghiệp
Thủ tướng cho rằng: Việt Nam sẽ không chỉ là một quốc gia xuất khẩu lúa gạo đạt mức kim ngạch hàng đầu thế giới mà chúng ta phải phấn đấu trong 10-20 năm tới, hạt gạo do người nông dân và doanh nghiệp Việt Nam sản xuất ra sẽ đem lại những giá trị gia tăng tốt nhất dựa trên việc đáp ứng một cách tinh tế các nhu cầu và tiêu chuẩn phổ quát về dinh dưỡng và dược liệu, góp phần củng cố danh tiếng của một trong những nền văn minh nông nghiệp lâu đời nhất của thế giới.
Với tầm nhìn này, Thủ tướng đề nghị đổi mới ngành sản xuất lúa gạo bằng các giải pháp đột phá về thể chế, chính sách, cả mô hình phát triển. Thứ nhất là điều chỉnh quy mô. Sản xuất lúa của Việt Nam cần cho phép người trực tiếp sản xuất tăng được quy mô của từng nông hộ bằng cách mở rộng hạn điền một cách phù hợp.
Việc hình thành các cánh đồng mẫu lớn, liên kết giữa doanh nghiệp với hộ nông dân, thuê lại đất lâu dài là những hướng điều chỉnh quy mô phù hợp trong sản xuất nông nghiệp. “Ở các nước, nông nghiệp chiếm tỉ lệ trong GDP không phải cao nhưng mà sản lượng rất lớn, lao động chỉ 5-7% còn mình thì lao động trong nông nghiệp quá nhiều”, Thủ tướng cho rằng cần cơ giới hóa nông nghiệp đi liền với đột phá trong vấn đề rút lao động ra khỏi nông nghiệp, nông thôn, cải thiện căn bản thị trường lao động phi chính thức.
Bên cạnh đó, điều chỉnh mục đích sử dụng đất lúa với tinh thần là vẫn giữ đất lúa nhưng xem xét lại mùa vụ, tính toán xen canh cây, con gì trên đất lúa, “chứ chúng ta không có chủ trương lấy đất lúa để làm sân golf”.
Xây dựng hệ thống thủy lợi một cách hiện đại, hướng đến đa mục tiêu và áp dụng cơ chế thị trường về giá nước sản xuất để người dùng tiết kiệm, sử dụng nước hiệu quả hơn. Kinh tế hợp tác và tư nhân sẽ làm dịch vụ quản lý tưới tiêu nội đồng.
Tổ chức sản xuất lớn, hình thành các vùng chuyên canh lúa tập trung cho từng mục đích, từng thị trường, có các cụm công nghiệp dịch vụ chế biến sâu, đồng bộ về tiêu chuẩn kỹ thuật trên quy mô lớn. Hình thành cho được chuỗi giá trị, phải giải quyết được vấn đề quy hoạch kinh tế và liên kết vùng. Thủ tướng cũng nêu yêu cầu chống thất thoát sau quy hoạch khi mà tổn thất sau quy hoạch còn ở mức khá cao, làm tăng giá thành, khó cạnh tranh.
Yêu cầu chú trọng, phục vụ tốt hơn nữa thị trường gần 100 triệu dân của Việt Nam, Thủ tướng nêu rõ, đừng để tình trạng gạo nước ngoài “xâm thực”, nằm “đầy kệ” với bao bì đẹp, quảng bá rất mạnh.
Về thể chế, Thủ tướng yêu cầu Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT sớm trình Chính phủ và báo cáo Quốc hội xem xét sửa Điều 109 Luật Đất đai, trước hết là có một số chính sách quy định phù hợp để mở rộng hạn điền. Chính sách đó cần lưu ý việc bồi thường thỏa đáng cho người dân khi thu hồi đất trên tinh thần khuyến khích mạnh mẽ hơn cánh đồng mẫu lớn; mở rộng, khuyến khích đầu tư tư nhân vào nông nghiệp; mở rộng quyền sử dụng đất và bảo hộ quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp tư nhân.