Báo Đại Đoàn Kết Văn hóa

Cát Đằng nghề họa thanh cao

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Cát Đằng nghề họa thanh cao

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News

Tôi nhớ ngày bé, gia đình có một bức tranh phong cảnh, in trên mặt gỗ, kích cỡ chỉ nhỉnh hơn bảng tập viết của học sinh lớp 1, hoa văn màu nâu trên nền đen. Bình thường nó bị phủ bụi, nhìn không bắt mắt. Nhưng mỗi khi được lau sạch nó trở nên sáng đẹp lạ thường. Lớn lên tôi mới biết đó là một bức tranh sơn mài.

Cổng làng sơn mài Cát Đằng. Ảnh: Duy Hưng
Cổng làng sơn mài Cát Đằng. Ảnh: Duy Hưng

Bền đẹp với thời gian

Biết là tranh sơn mài nhưng sơn mài là gì, tranh hoặc những sản phẩm sơn mài khác được tạo tác ra như thế nào mà lại có thể bền đẹp mãi với thời gian như vậy thì cho đến mới đây, khi đứng trước cổng làng nghề sơn mài Cát Đằng ở xã Vạn Thắng (tỉnh Ninh Bình) tôi vẫn… chưa hiểu. Dẫu vậy, khi đọc dòng chữ: “Cát Đằng nghề họa thanh cao” khắc trên cổng làng, tôi cảm nhận đây là ngôi làng của những con người tài hoa, yêu cái đẹp và sơn mài hẳn là nghệ thuật có nhiều điều để tìm hiểu. Đến khu tâm linh của làng - nơi có miếu thờ tổ nghề sơn, đọc những thông tin ở đây tôi mới rõ nghề sơn mài đã có ở Cát Đằng từ thời nhà Trần. Nghĩa là từ hơn 600 năm trước, người Cát Đằng đã biết tạo tác ra những sản phẩm đồ thờ tự tinh xảo, đẹp mắt cho đình chùa như hoành phi, câu đối, nhang án, kiệu, bình phong… hay những đồ dùng cho tư gia giới quý tộc, quan lại thời phong kiến như bình, lọ, chao đèn, ống bút, khay, bát…

Ghé vào gia đình vợ chồng ông Hùng, bà Bích ở xóm Hùng Vương thấy quang cảnh giống như hầu hết các nhà khác trong làng, chồng ngồi tạo tác các loại khung, hình dáng sản phẩm; vợ ngồi tỉ mẩn sơn trang trí những sản phẩm đang ở khâu hoàn thiện, xung quanh la liệt những dụng cụ đồ nghề, nhiều thứ người ngoài làng không thể biết tên và công dụng. Dừng tay, bà Bích chia sẻ năm nay đã 62 tuổi, bắt đầu nối nghiệp cha ông làm nghề sơn từ năm 17 tuổi, khởi đầu là xã viên Hợp tác xã Sơn mài Cát Đằng. Mang ngay câu hỏi “sơn mài là gì” ra hỏi, bà giải thích đơn giản là cứ sơn xong rồi lại mài, mài rồi lại sơn, lặp đi lặp lại nhiều lần, tất cả chỉ với mục đích làm cho sản phẩm sơn mài nhẵn bóng, bền đẹp theo thời gian. Trong đó, sơn là thao tác phủ nhiều lớp sơn ta (loại nhựa cây sơn có tính chất đặc biệt, dẻo, bền, chống ẩm mốc); mài là thao tác dùng than, đá mài, giấy nhám… để làm phẳng bề mặt, lộ ra những lớp sơn, vỏ trứng, vàng bạc, hay màu son, then… đã cẩn, vẽ từ trước. Ấy là bà khái quát như vậy, thực tế nghe bà rỉ rả sau đó mới hay sản phẩm sơn mài nghệ thuật là kết quả, kết tinh từ nhiều khâu trong một quy trình lao động phức tạp, đòi hỏi sự tỉ mẩn, công phu, khéo léo, kiên trì, kiên nhẫn; để hoàn thiện một sản phẩm có khi phải mất cả tháng, cả năm, chứ không chỉ có mỗi thao tác sơn, mài.

Bà Ngô Thị Bích giới thiệu về nghề sơn mài. Ảnh: Duy Hưng
Bà Ngô Thị Bích giới thiệu về nghề sơn mài. Ảnh: Duy Hưng

“Đầu tiên là chuẩn bị vóc, tức chuẩn bị cốt tranh hoặc cốt các sản phẩm khác, thường là gỗ, ván ép, tre nứa. Riêng tre nứa trước khi đưa vào tạo vóc phải được ngâm ngoài ao, ngoài sông khoảng 3 tháng, sau đó phơi khô, mục đích để trống mối mọt” - bà Bích cho biết. Sau khi có vóc, người thợ bắt đầu phủ những lớp hom, tức phủ lớp hỗn hợp gồm sơn ta trộn lẫn đất phù sa, bột đá, mùn cưa, mục đích để tạo độ phẳng, chắc cho vóc. Sau mỗi lớp phủ lại phải để khô, rồi mài phẳng, giúp vóc chắc, không cong vênh, ít thấm nước. Tiếp đến là công đoạn phủ sơn lót, tức phủ một lớp sơn ta, màu sắc tùy nhu cầu, thường là màu then - đen, màu đen - đen, hoặc son - đỏ để làm nền.

“Sơn phải được phết đều tay, rồi đưa vào buồng ủ kín, có độ ẩm phù hợp để cho khô dần. Quá trình này lặp đi lặp lại vài lần để nền sơn thật mịn và đều” - bà Bích giải thích. Tiếp đến là khâu trang trí bề mặt, tức là các khâu đục hoặc vẽ hình, khảm, dát. Vật liệu để khảm thường là vỏ trứng, vỏ trai, nguyên liệu dát thường là vàng, bạc. “Vỏ trứng trắng cho sắc độ sáng; vỏ trai cho độ óng ánh còn vàng, bạc tất nhiên là cho sự sang trọng” - bà giải thích thêm về việc chọn vật liệu.

Khéo léo, kiên trì và tỉ mẩn

Sau khâu đục, vẽ, khảm, dát, người thợ tiếp tục phủ lên những lớp sơn khác, mỗi lần phủ lại mang ủ, lặp lại đến vài lần, mục đích để những lớp sơn phủ này “bảo vệ” hình vẽ hoặc vật liệu trang trí bên dưới, đồng thời tạo độ sâu. Tiếp theo là khâu mài, theo bà Bích, đây là khâu đòi hỏi rất cao về sự tinh tế. Dụng cụ mài là đá suối, than tre, lá mít, lá chuối khô, bây giờ được thay bằng giấy ráp. Mục đích là khi mài, các lớp sơn phủ bên trên sẽ mỏng dần, để lộ ra sự đan xen giữa các lớp sơn và các hình đục, vẽ, vật liệu khảm, dát từ trước.

“Cứ mài từng chút một, mài đến đâu té nước đến đấy để rửa sạch bụi. Khó nhất là mài mạnh tay thì hỏng, mài non tay thì không ra được hiệu ứng nên phải rất khéo léo, kiên trì, tỉ mỉ” - nữ nghệ nhân 45 năm tuổi nghề kể. Cuối cùng là các khâu còn lại như đánh bóng, chỉnh sửa, hoàn thiện sản phẩm. Theo bà Bích, sản phẩm sơn mài được cho là đạt chất lượng khi đáp ứng các yêu cầu: bề mặt nhẵn bóng, màu sắc thâm trầm, bền chắc với thời gian và khí hậu nóng ẩm. “Hồi Hợp tác xã Sơn mài Cát Đằng còn hoạt động, tức giai đoạn từ năm 1960 đến đầu những năm 1990 chúng tôi làm ra rất nhiều sản phẩm là đồ gia dụng, đồ trang trí để xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Rất nhiều bức tranh Chủ tịch Hồ Chí Minh đang ngồi làm việc hay tranh chùa Một Cột, Vịnh Hạ Long là do chúng tôi làm đấy” – bà Bích khoe.

Sau khi Hợp tác xã giải thể vì nhiều lý do, vợ chồng bà Bích cũng như nhiều người khác ở làng lại về nhà, tự mở cơ sở sản xuất, lấy đó làm sinh kế chính cho đến ngày nay. “Các em, các cháu trong làng sau này giỏi và năng động hơn chúng tôi nhiều, lập công ty, cơ sở sản xuất lớn, ứng dụng công nghệ mới, liên kết xuất khẩu sản phẩm, thường xuyên đưa sản phẩm đi hội chợ, triển lãm” - bà Bích cho biết.

Tuy nhiên, qua bà Bích và những người thợ khác cho hay, giai đoạn hiện tại rất ít người ở làng còn làm các sản phẩm sơn mài theo lối cổ truyền trên. Theo đó, sơn ta ít còn được sử dụng, thay vào đó là sơn điều (chế xuất từ hạt điều) và các loại sơn công nghiệp khác. Quy trình sản xuất cũng được cải tiến, nhiều khâu vốn được làm thủ công nay được thay thế bằng máy. Anh Ngô Văn Bình - chủ doanh nghiệp Văn Minh ở xóm Hùng Vương lý giải, những thay đổi trên là cần thiết để người làng nghề thích ứng với sự thay đổi của xã hội, của thị trường và để giải bài toán lỗ lãi. Vì theo anh, nguồn sơn ta ngày càng khan hiếm, chi phí đắt đỏ hơn, quá trình sử dụng phải bảo quản rất kỹ vì dễ gây lở. Làm thủ công sản phẩm rất đặc biệt nhưng mất nhiều thời gian, năng suất thấp, giá thành cao, không dễ bán.

“Xưa các cụ theo phương châm chắc chắn, bền đẹp, độc đáo, hướng đến khách hàng có tiền. Nay chúng tôi theo phương châm nhanh, đẹp, rẻ” - anh Bình đúc kết. Anh cũng cho biết, ở thời điểm hiện tại, người làng tập trung tạo tác các sản phẩm thờ tự từ nguyên liệu gỗ, vì nhu cầu của các điểm thờ tự và tư gia rất cao. Riêng sản phẩm từ tre nứa ghép ít được sản xuất hơn. “Khách nước ngoài rất thích sản phẩm từ tre nứa, trước đây xuất khẩu được rất nhiều. Nhưng hiện tại, do nhiều biến động lớn nên đơn hàng ít hẳn. Hơn nữa, trước khi được tạo tác, tre nứa phải ngâm, phơi rất lâu, gây ô nhiễm môi trường nên chúng tôi cũng hạn chế sử dụng” - anh Bình chia sẻ.

Như nhiều làng nghề truyền thống khác, người Cát Đằng cũng có mối lo nghề làng bị thất truyền. Bà Bích chia sẻ, vợ chồng bà có 2 người con nhưng con gái đang làm cho doanh nghiệp nước ngoài vì thu nhập cao hơn hẳn nghề của mẹ, con trai thì đang phụ giúp bố mẹ nhưng không yên tâm, cũng vì lăn tăn chuyện thu nhập, trong khi vợ chồng bà tuổi đã cao. 

Trần Duy Hưng