Công tác bảo vệ môi trường đang có sự chuyển biến rất mạnh mẽ từ chủ trương, giải pháp đến nhận thức và tư duy hành động. Vấn đề môi trường luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong các chương trình nghị sự; các chương trình, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của đất nước với mục tiêu cao nhất là bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái.
Đây là nhấn mạnh của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường Trần Hồng Hà tại Hội nghị Môi trường toàn quốc lần thứ V, diễn ra sáng 4/8, tại Hà Nội.
Nhiều phong trào, mô hình điển hình về bảo vệ môi trường
Theo Bộ trưởng, xây dựng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường đã được đưa vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định chủ trương “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”, “xây dựng lộ trình, cơ chế, chính sách, pháp luật để hình thành, vận hành mô hình kinh tế tuần hoàn”.
Hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường đã được hoàn thiện, trong đó Luật Bảo vệ môi trường 2020 với nhiều chính sách, giải pháp đột phá, đánh dấu giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ trong công tác bảo vệ môi trường, hướng tới mục tiêu cao nhất cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân. Chất lượng môi trường sống tiếp tục được cải thiện.
Các mô hình, công nghệ hiện đại được triển khai trong tái chế, xử lý chất thải. Hoạt động quan trắc, cảnh báo, dự báo về chất lượng môi trường được nâng cao, cung cấp thông tin về môi trường phục vụ tốt cho hoạt động phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Nhiều phong trào, mô hình điển hình về bảo vệ môi trường đã đi vào cuộc sống, trở thành hành động và nếp sống của mọi người, mọi nhà và cộng đồng xã hội như vấn đề rác thải nhựa, bảo vệ môi trường nơi sinh sống,… ngày càng đóng góp thiết thực cho công tác bảo vệ môi trường.
Nguyên nhân và những bài học chia sẻ
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cũng chỉ ra những tồn tại, hạn chế, xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Chất lượng môi trường tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn chậm; môi trường ở một số nơi vẫn tiếp tục bị ô nhiễm, đặc biệt tại các lưu vực sông, làng nghề; một số sự cố môi trường vẫn xảy ra; việc khai thác tài nguyên không hợp lý, thiếu tính bền vững tiếp tục làm thất thoát tài nguyên và tác động xấu lên môi trường; tình trạng phá rừng, săn bắt, mua bán trái phép động, thực vật hoang dã, sinh vật ngoại lai xâm lấn đang diễn biến phức tạp.
Vì vậy, hội nghị lần này tập trung thảo luận, đánh giá cụ thể và khách quan những mặt được và chưa được của công tác bảo vệ môi trường nước ta thời gian qua, chỉ ra được những nguyên nhân và chia sẻ bài học kinh nghiệm để từ đó thống nhất các nhiệm vụ, giải pháp, kế hoạch hành động, chuyển các thách thức thành cơ hội. Bộ trưởng Trần Hồng Hà tin tưởng rằng, với ý chí và quyết tâm của cả hệ thống chính trị, của toàn dân cùng với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, Việt Nam sẽ thành công trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng kinh tế dựa vào khả năng cung ứng của các hệ sinh thái, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp; hoàn thành các mục tiêu của thập kỷ phục hồi các hệ sinh thái.
Nỗ lực để phát thải ròng bằng 0
Về vấn đề giảm mức phát thải, chia sẻ tại Hội nghị, bà Caitlin Wiesen, Trưởng Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP tại Việt Nam) cho rằng việc giảm mức phát thải bằng 0 trong vòng chưa đầy 30 năm có thể là nhiệm vụ khó khăn, đặc biệt khi Việt Nam đồng thời phấn đấu trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045. Tuy nhiên, trước đây, Việt Nam đã đạt được các mục tiêu quan trọng trong khoảng thời gian ngắn.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu của Việt Nam về mức phát thải ròng bằng 0, bà Caitlin Wiesen đã chia sẻ các hành động ưu tiên để cân nhắc được đúc rút từ các bài học kinh nghiệm trên thế giới, nhằm thúc đẩy sứ mệnh mới cho một cuộc “đổi mới xanh”. Trong đó, cần xây dựng một luật khí hậu toàn diện để tạo điều kiện cho những sáng kiến đột phá, tránh chồng chéo chính sách và cơ chế không cần thiết. Việt Nam cũng cần tiếp tục cung cấp các dịch vụ thông tin về khí hậu cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người chịu gánh nặng của các tác động bởi khí hậu.
Theo ước tính, Việt Nam sẽ cần 330 - 370 tỷ USD để đạt được mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Con số này đòi hỏi cả nguồn tài chính công và tư từ trong nước và quốc tế; trong đó, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) và đặc biệt là tài trợ từ khu vực tư nhân trong nước đóng vai trò thiết yếu để hỗ trợ đạt được mục tiêu này. Cần xây dựng các chương trình tài chính và cơ sở mới để thu hút và tạo ra nguồn tài chính xanh, ví dụ hệ thống giao dịch kết quả giảm phát thải, thị trường carbon, trái phiếu xanh.
Ngoài ra, theo bà Caitlin Wiesen, phát triển dựa vào thiên nhiên là con đường bền vững của Việt Nam. Các giải pháp dựa vào thiên nhiên mang lại những lợi ích nhiều hứa hẹn cho Việt Nam, trong đó, có lợi ích về tăng cường an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, giảm thiểu rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu; cải thiện việc làm và sinh kế dựa vào thiên nhiên.