Chiến lược phát triển năng lượng xanh từ hợp tác quốc tế
Hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức, đặc biệt về công nghệ, nguồn vốn và hạ tầng. Trong bối cảnh đó, để thúc đẩy phát triển năng lượng xanh một cách bền vững, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Cần hơn 136 tỷ USD cho giai đoạn đến năm 2030
Theo lộ trình của Quy hoạch điện 8 đưa ra, đến năm 2030, điện gió, điện mặt trời và thủy điện sẽ chiếm tỷ trọng đáng kể; không phát triển thêm các nhà máy nhiệt điện than mới sau năm 2030 và có lộ trình chuyển đổi nhiên liệu sang sinh khối hoặc Amoniac cho các nhà máy hiện hữu; trong giai đoạn quá độ, điện khí LNG được xác định là nguồn chạy nền quan trọng.
TS Nguyễn Anh Tuấn - Phó Chủ tịch Hiệp hội năng lượng Việt Nam cho biết, hiện Việt Nam đang chịu áp lực kép, đó là vừa phải đáp ứng nhu cầu điện năng tăng trưởng nóng (khoảng 8-10%/năm) để phục vụ phát triển kinh tế, vừa phải thực hiện chuyển đổi xanh triệt để.
Để làm được điều này, cần hơn 136 tỷ USD cho đầu tư nguồn và lưới điện chỉ riêng trong giai đoạn đến năm 2030. Trong khi đó, quá trình chuyển dịch năng lượng, thách thức lớn nhất hiện nay là an toàn và ổn định hệ thống lưới điện.
Giới chuyên gia năng lượng nhận định, việc tích hợp một tỷ trọng lớn năng lượng tái tạo biến đổi (như điện gió, mặt trời) vào hệ thống điện truyền thống đang tạo ra những “cú sốc” về vận hành và tính kinh tế tối ưu của hệ thống. Lưới điện của Việt Nam chưa đủ “thông minh” và linh hoạt để hấp thụ hiệu quả các nguồn điện này.
Đồng quan điểm, TS Lê Xuân Nghĩa - thành viên Hội đồng Cố vấn Chính sách của Thủ tướng, cho biết thêm: Việc xây dựng hệ sinh thái năng lượng xanh đối mặt nhiều “điểm nghẽn” mang tính hệ thống. Đó là yêu cầu đồng bộ về tiêu chuẩn công nghệ, đánh giá phát thải vòng đời; thiếu hạ tầng truyền tải và lưu trữ quy mô lớn; cùng bài toán vốn đầu tư khổng lồ trong khi nguồn lực nhà nước còn hạn chế.
Hợp tác quốc tế với 3 động lực chính
TS Nguyễn Anh Tuấn khẳng định, những hàng rào thuế quan truyền thống đang dần được dỡ bỏ, nhưng thay vào đó là những “hàng rào kỹ thuật xanh” ngày càng kiên cố. Do đó, chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam không chỉ là câu chuyện bảo vệ môi trường, mà là câu chuyện sống còn của năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đồng tình với quan điểm trên, TS Nguyễn Thành Sơn đến từ Khoa Quản lý công nghiệp và Năng lượng, Trường Đại học Điện lực Hà Nội cho rằng, việc hợp tác quốc tế về năng lượng trong khuôn khổ thương mại tự do nhằm tiến tới mô hình tích hợp năng lượng khu vực nhằm tự do hóa thương mại điện năng xuyên biên giới một cách bền vững, có hiệu quả đang được thúc đẩy bởi 3 động lực chính: giá trị kinh tế, an ninh cung cấp và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trao đổi điện năng không chỉ là giải pháp tình thế để đảm bảo an ninh năng lượng trong ngắn hạn mà còn là chiến lược tất yếu để Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực, tích hợp thành công năng lượng tái tạo và đạt được mục tiêu phát triển bền vững, giảm phát thải carbon trong dài hạn.
Tuy nhiên, việc trao đổi điện năng đòi hỏi kỹ thuật phức tạp. Vì vậy, trước hết các tiêu chuẩn/quy chuẩn kỹ thuật cần phải được chuẩn hóa và đồng bộ giữa hai quốc gia.
Còn theo ông Đặng Huy Đông - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quy hoạch và phát triển cho rằng, để đạt được mức tăng kinh tế 2 con số thời gian tới, Việt Nam phải tiếp tục thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và quốc tế vào những ngành và lĩnh vực chiến lược chủ lực cho giai đoạn tới như: kết cấu hạ tầng, logistics, chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo… Trong đó, việc đảm bảo nguồn cung ứng điện ổn định, tin cậy, với giá cả cạnh tranh, là điều kiện tiên quyết. Điều này chỉ có thể đạt được khi chúng ta hóa giải được 5 vấn đề, thách thức của ngành năng lượng mới giúp chúng ta vượt qua những thách thức và tận dụng hết các cơ hội mà những biến động địa chính trị, xu thế phi toàn cầu hóa, địa phương hóa chuỗi cung ứng và những lợi thế của các hiệp định FTA thế hệ mới mang lại.