Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu - “con chim vàng của nền âm nhạc Việt Nam” đã ra đi ở tuổi 91, để lại một gia tài âm nhạc đồ sộ. Ông sống vui tới cuối đời, và tới khi qua đời, vẫn ngồi ghế ban giám khảo chương trình Tiếng hát mãi xanh. Nhớ đến ông, khán thính giả vẫn thường nhớ đến hàng loạt ca khúc về tình yêu, quê hương, đất nước, trong số đó không thể không nhắc đến bài hát “Bóng cây Kơnia” phổ thơ Ngọc Anh.
Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu
11 năm mới phổ nhạc thành công
Nhớ lại một lần gặp nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu ở Hà Nội, tôi có hỏi ông về hoàn cảnh sáng tác một số bài hát, trong đó có “Bóng cây Kơnia”. Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu cho biết, khoảng năm 1960 ông đã đọc được bài thơ của nhà thơ Ngọc Anh. Nguyên văn bài thơ như sau:
Buổi sáng em lên rẫy
Thấy bóng cây Kơnia
Bóng ngả che ngực em
Về nhớ anh, không ngủ…
Buổi chiều mẹ lên rẫy
Thấy bóng cây Kơnia
Bóng tròn che lưng mẹ
Về nhớ anh mẹ khóc...
Em hỏi cây Kơnia:
- Gió mày thổi về đâu?
- Về phương mặt trời mọc,
Mẹ hỏi cây Kơnia:
- Rễ mày uống nước đâu?
- Uống nước nguồn miền Bắc.
Con giun sống nhờ đất
Chim phí sống nhờ rừng
Em và mẹ nhớ anh
Uống theo nguồn miền Bắc
Như bóng cây Kơnia
Như gió cây Kơnia.
Ngay lần đầu đọc bài thơ, nhạc sĩ đã cảm thấy thích thú. Ông bắt tay vào phổ nhạc, nhưng rồi kết quả không được như ý nên lặng lẽ cất đi. Tới năm 1964, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu vào chiến trường Tây Nguyên sống, lao động, chiến đấu cùng đồng bào dân tộc. Ở đây, ông được hòa mình vào không gian Tây Nguyên, tận mắt nhìn thấy những cây Kơnia sừng sững. Ông vẫn nhớ tới ca khúc phổ thơ của thi sĩ Ngọc Anh còn dang dở, nhưng lúc đó cảm xúc vẫn chưa “tới” nên vẫn còn bỏ đó.
Cho đến năm 1970, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu bị sốt rét rừng và phải ra Bắc điều trị. Thời gian này, bên cạnh vốn sống từ thực tế, ông có dịp suy ngẫm kỹ hơn về những lời thơ thăm thẳm của Ngọc Anh. Sự thật thì nhà thơ Ngọc Anh cũng đã viết bài thơ này theo điệu Kachoi của dân ca Hrê vào khoảng năm 1957-1958. Bài thơ khi đó được in trong tập thơ “Tiếng hát miền Nam” do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1959.
Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đã hoàn thành bài hát “Bóng cây Kơnia” sau 11 năm nghiền ngẫm, viết đi chỉnh lại. Có lẽ, trong rất nhiều ca khúc phổ thơ thành công của mình, bài hát này khiến ông lao tâm khổ tứ nhiều hơn cả, và cũng tốn thời gian dài nhất.
Ít ai còn nhớ, trước đó, bài thơ “Bóng cây Kơnia” của nhà thơ Ngọc Anh đã được nhạc sĩ Phan Thanh Nam phổ nhạc (từng được ca sĩ Tường Vi hát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam), nhưng nhạc sĩ Phan Huỳnh Điều vẫn để lại dấu ấn cá nhân của mình, để tạo nên một ca khúc trữ tình, mãi xanh cùng năm tháng. Nhiều người biết đến ca khúc qua tiếng hát của cô gái Ba Na có tên Măng Thị Hội – một giọng hát trong sáng như suối ngàn, vang sâu và hùng vĩ như núi rừng Tây Nguyên.
Cây Kơnia ở Tây Nguyên
Một cuộc đời tận tụy với âm nhạc
Được mệnh danh là ″con chim vàng″ của nền âm nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu là cánh chim đầu đàn thuộc thế hệ tiêu biểu của nền âm nhạc nước nhà ở thế kỷ XX. Ông đã sống một cuộc đời tận tụy với âm nhạc. Với những đóng góp to lớn, ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng ba, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Chống Mỹ hạng nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật.
Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu sinh ngày 11-11-1924 tại Đà Nẵng, nguyên quán Điện Bàn – Quảng Nam. Ông bắt đầu hoạt động âm nhạc từ những năm 40 của thế kỷ 20, trong nhóm tân nhạc.
Những ca khúc của ông nhiều thế hệ thuộc lòng, nhiều người hát, hát ở nhiều nơi, song như nhạc sĩ Trần Hiếu nhận xét, để thể hiện các ca khúc của Phan Huỳnh Điểu là đều không dễ dàng đối với các ca sĩ. Không đao to búa lớn, rất nhẹ nhàng dung dị, song ca sĩ luôn phải đầu tư và làm việc một cách nghiêm túc để có thể truyền tải hết tinh thần và thông điệp nhạc sĩ đã gửi gắm trong các nhạc khúc của mình.
“Trữ lượng” âm nhạc trong con người Phan Huỳnh Điểu như một vỉa quặng lớn. Ông sáng tác nhiều, đa dạng. Và ở đề tài nào cũng có những bài hát để lại dấu ấn. Công chúng yêu nhạc ngày nay vẫn có thể nhắc đến những sáng tác tiêu biểu của ông, từ những ca khúc viết trong kháng chiến như: “Giải phóng quân”, “Nhớ ơn Hồ Chủ tịch”, “Quê tôi ở miền Nam”...; cho tới những ca khúc được viết ra sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, non sông nối liền một dải như: “Cuộc đời vẫn đẹp sao”, “Hành khúc ngày và đêm”, “Những ánh sao đêm”...
Ông cũng còn được biết đến là nhạc sĩ có biệt tài phổ thơ, chấp cánh cho những bài thơ vốn ít người biết đến thành ca khúc có sức lan phổ mạnh mẽ. Sinh thời, ngồi trong căn phòng ở đường Thất Sơn (Quận 10– TP.HCM), nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu vẫn dành nhiều thời gian để đọc thơ, những tập thơ do bạn bè gửi tặng và cả thơ được in trên báo. Khi bắt gặp những bài thơ hay, cảm thấy đồng điệu, ông thường chép lại. Đến nay, trong gia tài âm nhạc ông để lại, có rất nhiều ca khúc được phổ từ những áng thơ và vững vàng trước thời gian, như: “Bóng cây Kơnia” (thơ Ngọc Anh), “Anh ở đầu sông em cuối sông” (thơ Hoài Vũ), “Sợi nhớ sợi thương” (thơ Thúy Bắc), “Thuyền và biển” (thơ Xuân Quỳnh)… Ngoài ra, ông còn được thiếu nhi nhớ đến với các ca khúc: “Nhớ ơn Bác”, “Đội kèn tí hon”, “Những em bé ngoan”… Bên cạnh đó, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu cũng là một trong những hội viên sáng lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam, và là 1 trong 12 sáng lập viên của NXB Kim Đồng. Ngoài sáng tác âm nhạc, ông còn có viết cuốn sách cho thiếu nhi: “Cá giấy biết bơi” (họa sĩ Mai Văn Hiến minh họa) - đây là 1 trong 8 cuốn đầu tiên được in nhân dịp thành lập NXB Kim Đồng, 6-1957.
Theo di nguyện của nhạc sĩ, khi ông qua đời, tro cốt ông được rải xuống sông Hàn (Đà Nẵng), đó là cách ông muốn được đắm mình với dòng sông quê hương…
Suốt mấy chục năm qua, sau khi nghe bài hát “Bóng cây Kơnia” của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu nhiều người muốn biết cây Kơnia có hình dáng như thế nào, nhưng không phải ai cũng có may mắn tận mắt nhìn thấy. Bởi ở Việt Nam, cây này chỉ có từ Quảng Nam đến một số tỉnh Nam Bộ và còn mọc ở các đảo Phú Quốc, Côn Đảo nhưng tập trung ở các tỉnh Tây Nguyên, nhiều nhất là ở Sa Thầy - Kon Tum, Lắk, Bản Đôn - Đăk Lăk... Theo các tài liệu khoa học, Kơnia là loài thực vật thân gỗ lớn, cao 15–30 m, đường kính 40–60 cm, có nhiều quả. Tán cây thường có hình trứng, sậm rất đặc trưng xanh quanh năm và có sức sống mãnh liệt, chịu hạn tốt, rễ cọc ăn sâu, nhiều rễ tỏa ngang nên ít bị đổ do mưa, bão. Đối với người đồng bào dân tộc thiểu số, cây Kơnia còn mang ý nghĩa tâm linh rất lớn, họ coi đây nơi trú ngụ của thần thánh, của vong linh những người đã khuất, rất ít khi họ chặt phá cây Kơnia; vì vậy trên nương rẫy của đồng bào thường có các cây Kơnia cổ thụ được sử dụng như cây che mát mỗi lúc nghỉ giải lao, nghỉ trưa… |