Liên quan đến loạt bài điều tra của báo Đại Đoàn kết phản ánh sự việc ông Dương Quang Hợp- nguyên Phó Viện trưởng Viện KSND Thái Nguyên cố tình giúp các bị can trong vụ án “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” ở tỉnh Thái Nguyên tẩu tán hết tài sản, Viện KSND Tối cao vừa ra cáo trạng xác định tội danh của ông Hợp và khẳng định việc khởi tố ông Hợp là không oan, sai.
Phó Viện trưởng giúp bị can tẩu tán tài sản
Theo Cáo trạng của Viện KSND Tối cao xác định, trong quá trình điều tra vụ án vợ chồng Võ Khánh Dương và Nguyễn Thị Quỳnh Anh “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Cơ quan CSĐT, Công an tỉnh Thái Nguyên đã kê biên và tạm giữ nhiều tài sản có giá trị của hai bị can Dương - Anh.
Kết quả điều tra đã xác định có 27 người bị hại, bị các bị can Dương- Anh chiếm đoạt với tổng số tiền hơn 183 tỷ đồng. Xét nguồn gốc số tài sản trên vừa là vật chứng của vụ án, vừa là tài sản kê biên để đảm bảo nghĩa vụ bồi thường của các bị can, nên Cơ quan CSĐT ra lệnh kê biên và tạm giữ là cần thiết, theo đúng quy định tại Điều 146 Bộ luật TTHS.
Do vậy việc ông Dương Quang Hợp ký 3 quyết định hủy bỏ 3 lệnh kê biên tài sản của Cơ quan CSĐT và ký 7 quyết định trả vật chứng trị giá hơn 11 tỷ đồng cho 5 người bị hại, trả cho ông Nguyễn Quốc Dũng và ông Dương Văn Bắc không phải là bị hại trong vụ án là vi phạm Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Trong vụ án, Dương- Anh đã lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của 27 người bị hại với tổng số tiền hơn 183 tỷ đồng. Đây là số tiền đặc biệt lớn của các bị hại mà các bị can phải có nghĩa vụ bồi thường theo kỷ phần và thuộc quyền quyết định của Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, ông Hợp là người được phân công chỉ đạo giải quyết vụ án. Sau khi vụ án được kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ sang VKSND tỉnh Thái Nguyên để truy tố, ông Hợp đã nghe kiểm sát viên báo cáo, đề xuất đường lối giải quyết vụ án.
Mặc dù biết rõ kiểm sát viên thụ lý vụ án chuyển tài sản, vật chứng theo vụ án đến Tòa án để giải quyết theo thẩm quyền và biết rõ đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng và số tài sản của các bị can còn lại để bồi thường chia đều cho người bị hại theo kỷ phần chỉ có duy nhất là những tài sản đang bị Cơ quan CSĐT kê biên, tạm giữ nhưng ông Hợp vẫn chỉ đạo cấp dưới làm thủ tục, sau đó đã ký 3 quyết định hủy bỏ 3 lệnh kê biên tài sản của Cơ quan CSĐT và ký 7 quyết định trả lại vật chứng là số tài sản kê biên và tài sản tạm giữ được định giá hơn 11 tỷ đồng.
“Như vậy, Dương Quang Hợp biết rõ việc ra 3 quyết định hủy bỏ 3 lệnh kê biên tài sản của Cơ quan CSĐT là trái pháp luật. Việc ban hành các quyết định hủy bỏ lệnh kê biên tài sản và các quyết định trả lại vật chứng cho các đương sự như đã nêu ở trên của ông Hợp là trái quy định của pháp luật, vi phạm Điều 76; Khoản 4, Điều 146 Bộ luật TTHS, Thông tư liên tịch số 06 ngày 24-10-1998 của Liên ngành Tư pháp Trung ương, tạo điều kiện cho 2 bị can Dương - Anh tẩu tán tài sản bị kê biên, dẫn đến hậu quả làm 23 bị hại khác trong vụ án bị mất quyền được bồi thường trong số tài sản cuối cùng của 2 bị can. Hành vi nêu trên của Dương Quang Hợp đã đủ yếu tố cấu thành tội “Ra quyết định trái pháp luật” được quy định tại Điều 296 BLHS…”- Cáo trạng nêu rõ.
Viện KSND Tối cao cũng xác định, đối với ông Nguyễn Xuân Cúc- nguyên Viện trưởng Viện KSND tỉnh Thái Nguyên đã không thực hiện hết trách nhiệm của Viện trưởng theo quy định của pháp luật. Khi công dân khiếu nại các quyết định trái pháp luật của cấp phó, ông Cúc không ra quyết định hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của cấp phó dẫn đến hậu quả những sai phạm kéo dài, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Khiếu nại của ông Hợp không có cơ sở
Đáng chú ý, quá trình bị điều tra, khởi tố, ông Dương Quang Hợp đã có đơn khiếu nại về việc Cơ quan điều tra, Viện KSND Tối cao khởi tố bị can về tội “Ra quyết định trái pháp luật” đối với ông Hợp là oan, sai. Ông Hợp cho rằng, các lệnh kê biên tài sản của Cơ quan CSĐT, Công an tỉnh Thái Nguyên là trái pháp luật nên việc ông Hợp hủy bỏ các lệnh kê biên tài sản đó để ra quyết định trả lại vật chứng cho các bị hại là đúng pháp luật.
Về nội dung trên, Viện KSND Tối cao khẳng định: Kết quả điều tra vụ án đã xác định tuy trong hồ sơ vụ án có hợp đồng chuyển nhượng đất về khu tổ hợp ở phường Phan Đình Phùng giữa vợ chồng Dương - Anh với ông Dương Văn Bắc và giấy viết tay mua bán ngôi nhà của vợ chồng Dương- Anh với ông Nguyễn Quốc Dũng nhưng hợp đồng và giấy viết tay không có giá trị pháp lý vì không được các cơ quan có thẩm quyền chứng thực.
Mặt khác, theo lời khai của 2 bị can Dương- Anh thì số tài sản bị cơ quan CSĐT kê biên được hình thành từ số tiền chiếm đoạt của các bị hại mà có nên việc kê biên, tạm giữ số tài sản của 2 bị can trong vụ án “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là rất cần thiết để chứng minh hành vi phạm tội của các bị can và đảm bảo việc điều tra, truy tố xét xử theo đúng quy định của pháp luật.
“Như vậy việc ông Hợp cho rằng, các lệnh kê biên tài sản của Cơ quan CSĐT, Công an tỉnh Thái Nguyên trái pháp luật là không có căn cứ” - Viện KSND Tối cao khẳng định.
Ngoài ra, ông Hợp còn cho rằng do áp lực từ công văn số 3606/VKSTC V1 ngày 9-11-2009 của Vụ 1, Viện KSND Tối cao không đồng ý gia hạn tạm giam đối với bị can Dương- Anh, sợ bị sai nên ông Hợp đã trả lại tài sản cho 7 đối tượng trên.
Về nội dung này, Viện KSND Tối cao khẳng định, đối chiếu, so sánh các tài liệu có trong vụ án “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thấy rằng nội dung công văn số 3606/VKSTC V1 không hướng dẫn địa phương này hủy bỏ lệnh kê biên, trả lại tài sản mà chỉ hướng dẫn địa phương một số vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự cụ thể. Do hồ sơ vụ án chưa vững chắc nên Vụ 1 không gia hạn thời gian tạm giam đối với các bị can tại thời điểm đó là có căn cứ, đúng pháp luật. Căn cứ để kết luận 2 bị can phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được củng cố sau khi có công văn số 3606/VKSTC V1 ngày 9/11/2009 của Vụ 1, do đó khiếu nại nêu trên của ông Hợp là không có cơ sở.