Theo thống kê, Việt Nam có khoảng 250.000 phụ nữ đang làm việc tại nước ngoài, mang về khoản thu nhập ngoại tệ lớn. Việc đảm bảo an toàn cho lao động di cư là vấn đề cấp thiết.
Số phụ nữ đi làm việc ở nước ngoài chiếm 30 - 40%
Thông tin tại Tọa đàm Di cư an toàn cho phụ nữ Việt Nam ra nước ngoài làm việc trong lĩnh vực chăm sóc và giúp việc gia đình mới đây cho thấy, Việt Nam là quốc gia đứng thứ 2 trong khu vực về số người ra nước ngoài làm việc.
Hiện ước tính có khoảng 650.000 người Việt Nam đang làm việc ở hơn 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong đó, thị trường lớn nhất là Nhật Bản với khoảng 300.000 người; tiếp sau là Đài Loan (Trung Quốc), khoảng 260.000 người; Hàn Quốc khoảng 50.000 người. Số lao động còn lại ở các thị trường châu Âu, Trung Đông, Malaysia... Đáng chú ý, chỉ tính riêng năm 2023, đã có 160.000 người Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng, trong đó, phụ nữ chiếm từ 30 - 40% trong số này và một phần đáng kể trong số những phụ nữ này làm việc trong lĩnh vực chăm sóc và giúp việc gia đình.
TS Hoàng Tú Anh - Giám đốc Trung tâm Sáng kiến sức khỏe và dân số (CCIHP) cho biết, xu hướng đi lao động ở nước ngoài là định hướng để góp phần phát triển kinh tế, tạo cơ hội việc làm cho nhiều phụ nữ. Theo bà Tú Anh, đi lao động ở nước ngoài hiện nay không chỉ vì vấn đề kinh tế, mà còn là cơ hội để những người phụ nữ thoát khỏi “lũy tre làng”, giao tiếp với thế giới, tăng cường vị thế trong gia đình và xã hội.
Bên cạnh những mặt tích cực khi di cư lao động nước ngoài tìm kiếm cơ hội việc làm và thu nhập cao lao động thường gặp những rủi ro trong quá trình đi làm việc ở nước ngoài, đơn cử như bị bạo lực, không minh bạch trong vấn đề tiền lương…
Bà Nguyễn Mai Thủy - điều phối viên Chương trình di cư, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), cũng cho rằng lao động đi làm việc ở nước ngoài trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, giúp việc gia đình không chỉ tạo cơ hội việc làm cho người lao động mà còn tăng thu nhập, góp phần nâng cao kỹ năng, vị thế.
Tuy nhiên, trong quá trình di cư, họ cũng đối mặt với những rủi ro kép. “Lao động giúp việc gia đình thường làm việc trong môi trường biệt lập, đa phần không được pháp luật bảo vệ về tiền lương, thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, an sinh xã hội. Bản thân họ cũng có nguy cơ bị bóc lột lao động, liên quan đến cưỡng bức, thậm chí mua bán người, song cơ chế khiếu nại còn nhiều hạn chế” - bà Thủy thông tin.
Cần đảm bảo an toàn
Đề cập về tầm quan trọng việc đảm bảo an toàn cho lao động nữ di cư đi làm việc ở nước ngoài, TS Khuất Thu Hồng - Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển xã hội, cho rằng, di cư lao động là xu hướng tất yếu không thể tránh khỏi, thậm chí cần nhìn nhận ở góc độ toàn cầu. Chính vì vậy, câu chuyện đảm bảo môi trường làm việc an toàn, phẩm giá cho người lao động là những điều cần chú trọng đặc biệt với lao động nữ di cư làm công việc chăm sóc và giúp việc gia đình.
Cùng quan điểm, TS Nguyễn Thu Giang - Giám đốc Viện Phát triển sức khỏe cộng đồng Ánh Sáng (LIGHT) nhấn mạnh cần có một chiến lược và giải pháp hỗ trợ phụ nữ phát triển năng lực thực sự có nền tảng và đồng bộ hơn, để họ có việc làm ngay tại Việt Nam cũng như ở quốc tế. Đồng thời, cần chú trọng cơ chế giám sát giữa tất cả các bên tham gia. Bên cạnh đó là sự phối hợp, tham gia của các bên liên quan trong việc xây dựng cơ chế điều phối, cũng như nâng cao năng lực.
Ở góc độ cơ quan quản lý, ông Nguyễn Gia Liêm - nguyên Phó cục trưởng, Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) nhấn mạnh, công tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là định hướng để giải quyết việc làm, tăng nhu nhập, nhưng điều quan trọng là thông qua đó còn góp phần đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam ở nước ngoài để sử dụng hiệu quả sau khi về nước.
Theo ông Liêm, việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài trong lĩnh vực giúp việc gia đình thực tế không được khuyến khích, song vì người lao động có nhu cầu nên cần tạo điều kiện, đảm bảo việc đưa đi an toàn.
“Vấn đề cần chú trọng là trang bị ngoại ngữ, kỹ năng cho người lao động giúp họ biết cách ứng xử để tự bảo vệ bản thân” - ông Liêm nói và cho biết, hiện pháp luật đã có các cơ chế hỗ trợ người lao động, song cách thức tổ chức thực hiện ở địa phương, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp cần được nâng cao hơn. Vấn đề quan trọng nữa là tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp thực hiện công tác phái cử; xem xét bổ sung quy định về việc doanh nghiệp phải mua bảo hiểm cho người lao động với mức tối thiểu khi đi làm việc ở nước ngoài.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần đảm bảo rà soát lại các hoạt động đưa đi, phối hợp với các tổ chức, cơ quan chính quyền địa phương trong công tác giáo dục định hướng cho người lao động trước khi xuất cảnh...
Hàn Quốc gia hạn thời gian ân xá cho người cư trú bất hợp pháp
Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) cho biết, cuối tháng 11/2024, Bộ Tư pháp Hàn Quốc quyết định gia hạn thời gian thực hiện ân xá đối với người nước ngoài cư trú bất hợp pháp tại Hàn Quốc tự nguyện về nước. Chính sách này nhằm tạo thêm cơ hội cho nhiều người nước ngoài đang cư trú bất hợp pháp, bao gồm cả lao động Việt Nam tại Hàn Quốc. Thời gian ân xá, ban đầu áp dụng từ ngày 30/9 đến 30/11/2024, sẽ được kéo dài thêm 2 tháng, đến hết tháng 1/2025. Trong thời gian gia hạn, Bộ Tư pháp Hàn Quốc sẽ phối hợp với các lực lượng chức năng triển khai các chiến dịch kiểm tra, truy quét và trục xuất những người không tự nguyện hồi hương.
Trong 2 năm gần đây, Hàn Quốc tiếp tục là thị trường hấp dẫn với lao động Việt Nam, ghi nhận hơn 15.000 người xuất cảnh mỗi năm. Điều này đưa Việt Nam trở thành quốc gia phái cử lao động lớn nhất trong số 16 nước có lao động làm việc tại Hàn Quốc.
Lan Hương