Đạo diễn Bùi Tuấn Dũng: Người Việt yêu nước từ trong máu
Sự đầu tư của nhà nước với các tác phẩm điện ảnh đã tạo ra bước ngoặt đáng mừng của điện ảnh Việt Nam. Từ những thành công hiện tại, đạo diễn Bùi Tuấn Dũng dự đoán về sự phát triển của Điện ảnh Việt Nam trong thời gian tới, hoà nhịp với đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

Từ phim chiến tranh đến dòng phim thị trường
PV: Gắn bó sâu nặng với dòng phim lịch sử - chiến tranh, sau đó, bất ngờ, anh trở thành biên kịch kiêm đạo diễn bộ phim trinh thám - hành động “Vũ điệu tử thần”, anh chia sẻ nguyên do nào cho bước chuyển của 2 thể loại này?
Đạo diễn Bùi Tuấn Dũng: Tôi thực ra là người của thị trường, nhưng số phận đưa đẩy, khiến tôi phiêu theo dòng phim lịch sử - chiến tranh khá lâu. Chắc do phim điện ảnh đầu tay của tôi, “Đường thư” là một phim chiến tranh. Hồi mới ra nghề, rất nhiều đạo diễn đàn anh hoặc cùng thế hệ tôi đắm chìm trong những biện giải trúc trắc và cầu kì về nghệ thuật thì tôi đơn giản chỉ nghiên cứu sâu về kĩ thuật kể chuyện, đặt tính hấp dẫn lên hàng đầu trong một câu chuyện phim cuốn hút. “Đường thư” duy cảm bao nhiêu thì “Vũ điệu tử thần” duy lý bấy nhiêu. Có lẽ, “Hà Nội Hà Nội” là dung hòa hơn cả. Phim đó kinh phí lớn gấp nhiều lần 2 phim kia nên tôi có điều kiện thể hiện hơn.
Anh có thể chia sẻ sâu, kỹ hơn về phong cách của mình?
Lúc đầu thì chẳng có phong cách nào cả. Những phim đầu của tôi hoàn toàn khác nhau cả về đề tài cũng như thủ pháp kể chuyện. Tuy nhiên, tôi luôn cố gắng tìm tòi cách để kể câu chuyện phim của mình theo một hình thức đơn giản, mạch lạc bằng thứ ngôn ngữ mạnh mẽ mà tinh tế nhất, dữ dội mà sâu sắc nhất bằng tầm tư duy và điều kiện kĩ thuật đương đại nhất. 3 phim đầu tiên của tôi quay bằng phim 35mm, với công nghệ hậu kì phim nhựa ở Việt Nam hồi đó quả thật rất khó khăn. Không có effect hình ảnh, không effect âm thanh, không kĩ xảo… Điện ảnh Việt lúc đó thực sự lạc hậu so với thế giới rất nhiều. Tôi quả thật bất lực với những đề tài lớn. Kiểu như bạn muốn một buổi hòa nhạc hoành tráng mà trong tay chỉ có vài cây đàn tậm tịt.
Thế rồi anh làm thế nào để vượt qua những chướng ngại đó?
Tôi bỏ Điện ảnh. Trong suốt 5 năm tôi chỉ làm phim truyền hình. Tới 2012, với “Những người viết huyền thoại”, kĩ nghệ Điện ảnh Việt lúc đó thực sự đã khác. Với chiếc máy quay Digital và âm thanh Surround, dù kinh phí bộ phim không lớn nhưng đã giúp tôi phần nào bộc lộ bản thân mình. Kĩ nghệ Điện ảnh cần công nghệ và kĩ thuật tốt cùng với một đội ngũ làm nghề chuyên nghiệp. Tôi bắt đầu tiếp cận tới những đề tài lớn hơn như “Thầu Chín ở Xiêm”. Đây là một phim chân dung lãnh tụ mà tôi đã bỏ vào đó không ít công phu.
Nhưng rồi, anh vẫn quay trở về với những bộ phim giản dị, gần gũi với khán giả, mà vẫn chuyển tải thông điệp sâu sắc và đậm triết lý nhân sinh?
Những tác phẩm lớn luôn có những thông điệp có hệ thống từ cảm xúc chứ không phải áp đặt vài thủ pháp vụn vặt kiểu điện ảnh thời kì sơ khai. Trong phim của tôi không có những thủ pháp học đường kiểu như so sánh, ẩn dụ… những thủ pháp điện ảnh có từ trước thập niên 80 mà sau này thế giới không ai còn dùng nữa. Tôi luôn muốn trực diện đi thẳng vào vấn đề của phim, của nhân vật và cố gắng tìm cách để nhân vật cùng tôi, cộng sự của tôi thể hiện. Tôi kiểm soát bộ phim ngay từ trên giấy, ở mỗi shot quay, hay từng nhịp dựng của phim. Ở phim trường, tôi biết rất rõ tôi cần cái gì, minh triết, cụ thể và luôn tỉnh táo dù lúc đó là 3 giờ sáng và đã trải qua 20 tiếng làm việc liên tục. Trong nghề của tôi, thỉnh thoảng có những ngày chúng tôi phải làm việc như vậy.
Từ những tư tưởng sâu sắc chuyển tải qua mỗi thước phim, có thể thấy, anh là người ưa đọc sách?
Đọc chứ! Tôi may mắn là người đọc nhiều, xem nhiều nghe nhiều và biết đúc kết. Những kinh nghiệm đó hỗ trợ rất tốt cho tôi trong việc hình thành cấu trúc một tác phẩm. Mỗi thứ đưa vào phim, dù là một tình huống, một câu thoại, một chi tiết vật thể hay phi vật thể tôi cũng lật qua, lật lại qua nhiều chiều tư duy. Tôi trân trọng sức lao động của những cộng sự và luôn muốn họ cùng mình sáng tạo, vì vậy hầu hết những người làm việc với tôi đều có những thành công bằng những giải thưởng cá nhân của họ. Trong kĩ nghệ kể chuyện, tôi luôn dung dị hóa mọi thứ ngõ hầu tìm cách nhanh nhất đi tới trái tim khán giả, tuy nhiên những dung dị đó đã được chọn lọc từ những tinh hoa nhất trong tầm hiểu biết của tôi ở thế giới này từ triết học, đạo lý, tôn giáo, văn hóa hành vi trên nền lịch sử vùng đất, dân tộc và xa hơn là lịch sử loài người.

Dân khí và sức sống mới của dòng phim yêu nước
Anh có thấy sự chuyển dịch trở lại của dòng phim lịch sử chiến tranh, nhưng lại mang cách thể hiện mới, bứt phá và kỹ lưỡng?
Tôi không nghĩ vậy. Trước đó, những phim chiến tranh như “Dòng máu anh hùng”, “Áo lụa Hà Đông” hay ‘Những người viết huyền thoại”… chúng tôi đã làm rất hiện đại, chỉn chu, kĩ lưỡng nhưng vẫn kém doanh thu. Tôi nghĩ dân trí mới là thứ quyết định tác phẩm điện ảnh đại chúng ra sao. Dân trí quyết định khán giả, dân khí tạo cảm hứng và lập thói quen. Năm nay là một năm bản lề xoay chuyển và phá vỡ nhiều quan điểm mang tính định kiến với dòng phim ái quốc, tôi gọi vậy bởi tôi chắc chắn không cần chiến tranh hay lịch sử, các phim ái quốc đều đang hấp dẫn khán giả. Có được điều này bởi gu xem phim của khán giả gần đây đã khác nhiều rồi. Đời sống giới trung lưu, những người thường xuyên mua vé cốt tận hưởng cảm xúc mạnh mẽ do điện ảnh mang lại, đã tốt lên nhờ mức sống tăng cao. Trước đây, ngoài mấy nhóc học sinh và các chị em tiểu thương là mục tiêu bán vé, giờ là những tầng lớp sinh viên, người đi làm, có cả công nhân và trí thức tới rạp rất nhiều. Hiệu ứng truyền thông của A50, A80 thổi vào tâm hồn người Việt vốn ái quốc từ trong máu tạo thành một nhịp cộng hưởng hoan ca khiến chúng ta như quay trở lại không khí chiếu phim thời bao cấp ngày xưa. Dân khí là thứ khiến hiệu ứng truyền thông ái quốc dâng tràn cõi mạng. Đây là điều ít thấy trong xã hội Việt Nam. Chỉ mong sao, chúng ta duy trì được dài lâu nguồn cảm xúc này. Đừng cho ra những bộ phim dở ẹc, giả trân, vô cảm và xoàng xĩnh khiến khán giả quay lưng. Gây ấn tượng thì dễ, xóa ấn tượng rất khó. Để tạo ra niềm tin của khán giả với phim Việt như hiện nay đâu dễ.
Nhìn lại dòng phim điện ảnh lịch sử cách mạng được chiếu trong một năm qua, từ “Địa đạo” đến “Mưa đỏ” đã mang lại cho anh những suy nghĩ gì?
Trừ khi làm giám khảo ở các kì liên hoan phim, tôi không bao giờ khen chê bất kì một bộ phim nào. Với mỗi tác phẩm nghệ thuật, nói gì, đúng chỗ, đúng lúc, đúng người chịu nghe mới tốt. Lời có thể là châu ngọc, cũng có thể “quá khẩu thành tàn”. Ngay cả trong một diễn đàn chuyên nghiệp thì những đánh giá mang tính học thuật chỉ nên dùng cho những bộ phim nặng tính hàn lâm mà thôi. Mỗi nhà làm phim, mỗi đơn vị sản xuất đều có tính mục đích khi làm ra một sản phẩm và mọi sự khen chê ở góc độ cá nhân người làm nghề, dù đúng dù sai cũng là khập khiễng. Vì vậy, ở góc độ đạo diễn, tôi sẽ không nói gì về những phim mới ra rạp, chưa dự các kì liên hoan phim. Tuy nhiên, tôi sẽ có vài ý kiến nhỏ dưới góc độ khán giả, vì tôi được mời tới dự buổi chiếu ra mắt với đúng tư cách đó. Đây là 2 bộ phim chiến tranh được đầu tư khổng lồ mà tôi đã chờ đón. Nếu “Địa đạo” là một câu chuyện của một đơn vị của chiến trường miền Đông - Nam Bộ thì “Mưa đỏ” là một câu chuyện ở chiến trường miền Trung. Cả 2 bộ phim đều mang lại những cảm xúc tốt với tôi và mọi người trong khán phòng. 2 DOP, những người chịu trách nhiệm về hình ảnh của cả hai phim đều là những người bạn thân thiết mấy chục năm qua, đã quay cho tôi nhiều phim, và nhiều thành phần trong đoàn nữa, họ đã cống hiến và làm nghề rất tuyệt vời. “Địa đạo” mang nhiều dấu ấn cá nhân, trong khi “Mưa đỏ” lại đẩy tầm phim đại chúng. 2 bộ phim với hai lối thể hiện khác nhau cho ra 2 tác phẩm về chiến tranh giàu hương vị và màu sắc tư tưởng mà nhiều năm qua khán giả thèm khát.
Anh có thể chia sẻ cụ thể hơn?
Điều khán giả cần là các nhà làm phim hãy mạnh mẽ và chân thành. Hãy đối diện với mọi sự thật và không thật từng trở thành định kiến đầy tính áp đặt xưa cũ. Hãy làm ra một bộ phim với những vấn đề mà trong hình thức tuyên truyền, dù rất cần thiết trước đây, cũng mang lại ít nhiều gờn gợn dù bộ phim được xử lý có vẻ như tròn trịa hoàn hảo. Mỗi thời mỗi khác, nửa thế kỉ đã qua đi, kẻ thù thành bạn, thành đối tác chiến lược toàn diện, chức năng của Điện ảnh đối với xã hội giờ cũng khác. Người Việt nhìn người Việt, dù ở góc độ chính trị khác biệt, cũng có nhiều tính nhân ái, chiến tranh qua đi, đồng bào cả thôi mà. Hãy thành thật và cởi mở hơn để nói thẳng về mất mát, đớn đau, sai lầm và thật đáng tiếc… khán giả chỉ cần chúng ta vậy thôi, hãy làm ra những bộ phim nghiêm túc, chuyên nghiệp với một trái tim nhiệt huyết và chân thành. Và đó cũng là niềm cảm hứng khiến khán giả kéo nhau ùn ùn tới rạp, dân khí tăng thì rồi dân trí cũng tăng. Dù có nhiều những ý kiến trái chiều, những đúng sai cần chỉnh sửa nhưng tôi thấy chẳng có vấn đề gì. Tôi nghĩ là Việt Nam nên có nhiều hơn những phim thế này. Lớp trẻ cần biết nhiều hơn về quá khứ, để hiểu, để cảm phục, để tự hào và là nguồn động lực cho tương lai. Hãy làm nhiều hơn bởi kho tàng lịch sử và chiến tranh Việt Nam nhiều năm qua đã rất hiếm phim mới, phim tử tế rồi.
Anh nghĩ thành công của 2 bộ phim, đặc biệt là “Mưa đỏ” đến từ đâu?
Nếu nhìn ở góc độ sản xuất, tôi nghĩ các nhà làm phim đã rất giỏi khi biết tập trung vào những bối cảnh chính mà không có nhiều những phụ cảnh rườm rà. Quy mô câu chuyện phim cũng thế, lấy giọt nước nói về biển cả như vậy là đủ. Hai phim đã tận dụng được cả 2 hiệu ứng truyền thông A50 và A80. Họ biết chọn điểm rơi, ra rạp đúng lúc và tạo lên kì tích. Tôi rất khâm phục đội ngũ phát hành của phim này, họ thật tuyệt vời. Về nội dung, có nhiều tranh cãi nhưng tôi nghĩ hiệu ứng khán giả của 2 bộ phim quan trọng hơn. Cả 2 phim đều bi tráng và mang lại cho khán giả những rung động và cảm xúc rất tốt.
Điện ảnh Việt hướng tới kỷ nguyên mới
Với doanh thu kỷ lục, gần 714 tỷ đồng, anh có thấy đây là tín hiệu đáng mừng cho dòng phim lịch sử chiến tranh không?
Rất mừng chứ! Nhiều năm rồi, bất kể bạn làm nghiêm túc, bạn làm hay, cứ chiến tranh, lịch sử là khán giả quay lưng. Đầu tư là lỗ nặng, thu hồi vốn gần như không tưởng. Tất nhiên, năm nay là năm mà toàn quốc tập trung cho lễ kỉ niệm. Để có sự cộng hưởng này là sự vào cuộc của mọi ban ngành và hệ thống truyền thông với những chi phí quốc gia khổng lồ. Tôi nghĩ, cho dòng phim nhà nước phát hành là chủ trương đúng đắn. Đầu tiên, phải nâng cao chất lượng phim Việt để khán giả yêu và có thói quen xem phim Việt. Xem mọi đề tài chứ không chỉ dòng lịch sử - chiến tranh. Chẳng lẽ, cứ phải đợi mỗi mấy chục năm chờ lễ mới có cơ hội chọn điểm rơi nhờ hiệu ứng truyền thông mới dám phát hành? Tôi nghĩ nhà nước phải có chiến lược cho phát triển phim Việt, nâng cao chất lượng phim Việt, đưa Điện ảnh trở thành một mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp siêu lợi nhuận không chỉ ở tầm trong nước.
Những phim này có tạo nguồn cảm hứng sáng tạo trong anh?
Tôi có nhiều đề tài lớn cần chuẩn bị trong nhiều năm. Tôi luôn có chiến lược cho mình ở mỗi giai đoạn cuộc đời. Lịch sử và chiến tranh song song với dòng phim giải trí chất lượng là tôi đang hướng tới. Ở tuổi tôi, rất khó để có gì làm mình ngạc nhiên nữa. Tôi lặng và trầm trong tư duy.
Đề tài nào anh đang tập trung quan tâm?
Nói thì bạn không tin đâu, tôi sẽ quay lại dòng phim thị trường, quay lại với chính tôi 20 năm về trước. Chúng tôi đang có kế hoạch làm một loạt phim thị trường vào những năm tới. Ví dụ, năm tới là một phim Rom-Com về tuổi mới lớn và cha mẹ của các em trên nền của một câu chuyện trinh thám hình sự. Tôi đã từng ngồi rất lâu ở các trường trung học của cả 3 miền Trung - Nam - Bắc chỉ để nghe các em nói chuyện với nhau. Chúng giống như con trai lớn của tôi, cháu đang học trung học, với rất nhiều bí mật của bản thân, của nhóm và băng nhóm. Nguyên những mâu thuẫn và xung đột học đường của chúng với nhau cũng đã nhiều chuyện thú vị lắm rồi. Song song với câu chuyện của chúng là chuyện về cha mẹ chúng và vấn đề của họ. Tóm lại, một phim không chỉ thuần túy giải trí mà ít nhiều mang tính xã hội với giá trị nhân văn vốn dĩ cần phải có trên nền một câu chuyện thật cuốn hút.
Quả thực, dù xuất phát từ những ý tưởng hay, Điện ảnh vẫn luôn là một thử thách lớn với sự đầu tư, có được một bộ phim thành công cũng trải qua nhiều mất mát?
Bao giờ cũng vậy, khi ta chấp nhận cuộc chơi thì phải học cách chơi. Những kinh nghiệm và mất mát khiến ta trưởng thành. Nó là nền tảng để ta bước tiếp hoặc dừng lại. Từ xưa tới nay, ở thế giới này Điện ảnh là thánh đường và cũng là địa ngục. Nó không giành cho những tay mơ, nó nghiệt ngã đấy. Nó xây và đập, vui đấy rồi sẽ buồn ngay đấy. Tôi là người làm nghề nhiều năm, chứng kiến cũng nhiều thăng trầm và tôi hiểu chuyện này lắm.
Chính vì thế, với những yêu cầu cao về nghệ thuật, đòi hỏi khắt khe về nội dung, nhưng lại cần gần gũi dễ được công chúng tiếp nhận luôn là bài toán khó?
Đó là những yêu cầu cơ bản của một bộ phim khi đưa ra thị trường và với người làm nghề thì không khó. Tôi đã từng ngồi ở các rạp tại TPHCM trong suốt nhiều năm chỉ để theo dõi và tìm hiểu gu khán giả và quyết định thôi, không đầu tư sản xuất phim nữa. Trước đây, nó bất thường lắm. Bạn có thể làm một phim rất tốt nhưng chưa chắc phim có khách. Tuy nhiên, có những phim tào lao, thậm chí ngô nghê những vẫn có khách đều đều thậm chí lên hàng “top”. Tuy nhiên, gần đây, có lẽ khán giả đã quá chán với những phim kiểu đó nên họ phản ứng ra mặt. Trên các diễn đàn, họ chê tơi tả. Họ tương tác trực tiếp với những nhà làm phim với những phản ứng mạnh mẽ và công bằng. Họ bỏ tiền mua vé, họ có quyền. Họ xứng đáng được bảo vệ hoặc ít nhất tự bảo vệ mình với những sản phẩm dở. Đó cũng là lý do thúc đẩy tôi muốn quay lại dòng phim thị trường. Ngày nay, với chiếc điện thoại, hiệu ứng truyền thông đến nhanh, hiệu quả và việc lan tỏa thông tin cũng vậy, rất nhanh. Bộ phim thành công hay thất bại cũng là nhờ hệ thống quảng bá phát hành trong đó phụ thuộc rất nhiều vào mạng xã hội. Và những những “seeding” bẩn lừa khán giả bằng những bài viết khen tùm lum dễ bị “bóc” lắm. Phim dở là dở, và hiệu ứng dở lan tỏa cũng nhanh như phim tốt vậy. Các nhà làm phim có nghề sẽ có nhiều cơ hội để thể hiện mình hơn.
Từ những thành công hiện tại, anh dự đoán gì về điện ảnh Việt thời gian tới?
Tôi nghĩ, nếu chính phủ quan tâm một cách chiến lược với điện ảnh, cùng với dân trí, dân khí kiểu 2025, điện ảnh sẽ là lĩnh vực mà nhiều nhà đầu tư hướng tới. Năm nay, một năm bản lề, mở ra một kỉ nguyên mà điện ảnh Việt sẽ vươn mình.
Cảm ơn những chia sẻ sâu sắc của anh. Chúc mọi dự án điện ảnh của anh thành công rực rỡ!
NSƯT - Đạo diễn Bùi Tuấn Dũng có 30 năm sản xuất phim và 7 năm giảng
dạy (Trường Điện ảnh Quốc tế Sài Gòn, ĐH Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội ).
Các tác phẩm tiêu biểu của ông: “Đường thư” (2004, Giải C Bộ Quốc
phòng) , “Hà Nội Hà Nội” (2005, Bông sen Vàng, Cánh diều Vàng), “Vũ điệu Tử
thần” (2006), “Những người viết huyền thoại” (2013, 6 Bông sen Vàng), “Thầu
Chín ở Xiêm” (2015 , Giải A Học tập và làm theo gương Hồ Chí Minh) , “Khúc mưa”
(2020, Giải B Bộ Quốc phòng), “Bình minh phía trước” (2022, Cánh diều Bạc 2023)
, “Sao xanh nơi biển sóng” (2024, Giải C Bộ Quốc phòng) ,...