Báo Đại Đoàn Kết Giáo dục

Đào tạo hệ cao đẳng trong đại học: Nỗi lo lý thuyết lấn át tay nghề

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Đào tạo hệ cao đẳng trong đại học: Nỗi lo lý thuyết lấn át tay nghề

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News
Đào tạo hệ cao đẳng trong đại học: Nỗi lo lý thuyết lấn át tay nghề
 Sinh viên Trường ĐH Bách khoa (ĐH Quốc gia TPHCM) tìm hiểu sản phẩm ứng dụng công nghệ xanh và chuyển đổi số. Ảnh: NTCC

Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) cho phép các trường đại học (ĐH) tham gia đào tạo trình độ cao đẳng (CĐ) đang mở ra nhiều kỳ vọng trong việc tận dụng nguồn lực sẵn có của hệ thống giáo dục ĐH, đồng thời góp phần đa dạng hóa con đường học tập cho người học sau THPT.

Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích được kỳ vọng, không ít ý kiến bày tỏ sự băn khoăn trước nguy cơ mở ngành ồ ạt, đào tạo thiên về lý thuyết, thiếu gắn kết với thực hành.

Mở rộng đối tượng tham gia giáo dục nghề nghiệp

Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), trong đó một trong những điểm đáng chú ý là các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) được phép tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp (GDNN), bao gồm một số ngành đặc thù như nghệ thuật, thể thao, đào tạo giáo viên, quốc phòng - an ninh. Các cơ sở GDĐH đang đào tạo nhóm ngành thuộc Danh mục công nghệ chiến lược được phép đào tạo trình độ CĐ cùng nhóm ngành.

Trước đó, Luật GDNN 2014 chỉ quy định, phạm vi điều chỉnh cơ sở giáo dục và không quy định đến cơ sở GDĐH được phép tham gia hoạt động GDNN. Sự thay đổi này được lý giải nhằm khai thác tốt hơn cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên và tiềm lực nghiên cứu của các trường ĐH, nhất là trong bối cảnh nhiều trường đang gặp khó khăn về tuyển sinh. Ở góc độ chính sách, đây được xem là một giải pháp linh hoạt, góp phần mở rộng quy mô đào tạo nguồn nhân lực trình độ trung cấp – CĐ, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường lao động.

TS Lê Viết Khuyến - Phó Chủ tịch Hiệp hội các trường ĐH, CĐ Việt Nam cũng cảnh báo rằng, việc mở rộng đào tạo CĐ trong các trường ĐH tiềm ẩn nguy cơ “ĐH hóa” GDNN. Ông Khuyến nhấn mạnh, điểm cốt lõi của đào tạo CĐ là kỹ năng nghề, thời lượng thực hành chiếm tỷ lệ lớn, sinh viên ra trường có thể làm việc ngay. Nếu các trường ĐH chỉ “gắn mác” CĐ nhưng chương trình, phương pháp giảng dạy và đánh giá vẫn mang nặng tính lý thuyết, mục tiêu đào tạo sẽ khó đạt được.

Nguy cơ mở ngành theo phong trào

Một lo ngại khác là tình trạng mở ngành ồ ạt để thu hút người học, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh tuyển sinh ngày càng gay gắt. Khi được trao thêm quyền đào tạo CĐ, một số trường có thể chạy theo nhu cầu trước mắt, mở nhiều ngành “hot” nhưng thiếu sự chuẩn bị về đội ngũ giảng viên thực hành, xưởng thực tập, thiết bị và mối liên kết với doanh nghiệp.

Thực tế thời gian qua cho thấy, ngay cả ở bậc ĐH, không ít ngành đào tạo mở ra trong thời gian ngắn rồi phải tạm dừng hoặc giải thể vì không đảm bảo chất lượng, không tuyển sinh được. Nếu kịch bản này lặp lại ở trình độ CĐ, hệ lụy không chỉ là lãng phí nguồn lực xã hội mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người học.

Bên cạnh đó, đào tạo CĐ đòi hỏi sự gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp – nơi sinh viên có thể thực tập, rèn nghề và tiếp cận môi trường làm việc thực tế. Trong khi đó, không phải trường ĐH nào cũng có sẵn mạng lưới doanh nghiệp đối tác phù hợp với từng ngành nghề cụ thể ở trình độ CĐ.

Vì vậy, các chuyên gia đề xuất cần quy định rõ ràng điều kiện để một trường ĐH được phép đào tạo CĐ. Không nên áp dụng đại trà, mà chỉ cho phép những cơ sở đáp ứng đầy đủ yêu cầu về cơ sở vật chất thực hành, đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm nghề nghiệp, cũng như mối liên kết bền vững với doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, chương trình đào tạo CĐ trong ĐH cần được xây dựng độc lập, không sao chép hay “rút gọn” từ chương trình ĐH. Chuẩn đầu ra phải nhấn mạnh kỹ năng nghề, năng lực thực hành và khả năng thích ứng với thị trường lao động, thay vì chỉ tập trung vào kiến thức lý thuyết.

TS Lê Viết Khuyến cũng nhấn mạnh vai trò quản lý nhà nước trong kiểm định, thanh tra, kiểm tra, giám sát chặt chẽ không chỉ về điều kiện mở ngành, chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra… mà trong suốt quá trình hoạt động. Quan trọng hơn, cần lắng nghe phản hồi từ doanh nghiệp và người học – những đối tượng trực tiếp thụ hưởng và đánh giá chất lượng đào tạo. Chỉ khi sinh viên CĐ ra trường có việc làm ổn định, đáp ứng yêu cầu công việc, chính sách này mới thực sự phát huy hiệu quả.

“Mở rộng quyền đào tạo luôn là vấn đề cần cân nhắc kỹ lưỡng, nhất là trong lĩnh vực GDNN – nơi chất lượng gắn chặt với thực tiễn sản xuất. Cho phép ĐH đào tạo CĐ là một bước đi phù hợp trong bối cảnh mới, nhưng nếu thiếu ranh giới rõ ràng và điều kiện nghiêm ngặt, nguy cơ mở ngành ồ ạt, thiếu thực hành là điều khó tránh khỏi” – TS Lê Viết Khuyến cảnh báo và cho rằng cần thận trọng từng bước để tránh những hệ lụy dài hạn cho người học, cho thị trường lao động và cho chính uy tín của hệ thống giáo dục. Trong đó, cần lưu ý việc mở rộng không đồng nghĩa với buông lỏng; ngược lại, càng mở rộng, yêu cầu về chất lượng và trách nhiệm càng phải được đặt lên hàng đầu.

Thu Hương