Chỉ tính riêng quý 3 vừa rồi, cả nước đã có hơn 28 triệu người lao động phải hứng chịu tác động tiêu cực của đại dịch, trong đó hơn 4,7 triệu người bị mất việc làm.
Ngày 7/1, Quốc hội thảo luận ở hội trường về Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ triển khai Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.
ĐB Nguyễn Thị Thủy (đoàn Bắc Kạn) cho rằng: Chính sách liên quan đến người lao động và thị trường lao động, có lẽ chưa khi nào chúng ta chứng kiến nhiều khó khăn. Suy thoái lần này là do dịch bệnh gây ra nhưng đã để lại những hậu quả rất nặng nề với nền kinh tế, trong đó có vấn đề lao động và việc làm. Sẽ không khó để nhận thấy những người xung quanh chúng ta nếu không phải là công chức nhà nước thì hầu như đều đang phải đối mặt với vấn đề lao động, nhất là tình trạng mất việc, giãn, giảm việc làm.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã nêu 5 vấn đề. Thứ nhất, về tình trạng mất việc, giãn, giảm việc làm, 4 đợt dịch vừa qua đã gây ra những ảnh hưởng rất lớn đối với người lao động. Chỉ tính riêng quý 3 vừa rồi, cả nước đã có hơn 28 triệu người lao động phải hứng chịu tác động tiêu cực của đại dịch, trong đó hơn 4,7 triệu người bị mất việc làm, hơn 14 triệu người phải tạm nghỉ, tạm ngừng sản xuất kinh doanh, hơn 10 triệu người phải giãn, giảm giờ làm việc.
“Biến thể Delta đã cuốn đi khoảng 1/4 mức lương bình quân tháng của người lao động vùng Đông Nam Bộ. Đồng lương của người lao động vốn đã không dư giả gì thì nay vì dịch bệnh càng trở nên khó khăn hơn”-bà Thủy nói và đưa ra dẫn chứng: Kết quả khảo sát của Ban nghiên cứu phát triển doanh nghiệp tư nhân với 43.000 lao động bị mất việc cho thấy, gần 50% trong số này có nguồn tích lũy chỉ đủ để duy trì cuộc sống trong 1 tháng, 37% chỉ đủ duy trì cuộc sống cho 3 tháng và chỉ có hơn 4% là đủ duy trì cuộc sống cho trên 4 tháng.
Thứ hai, theo bà Thủy, thị trường lao động bị đẩy vào trạng thái cả cung và cầu lao động đều bị thu hẹp. Đợt bùng phát dịch lần thứ tư đã khiến cho hơn 1,3 triệu lao động phải dịch chuyển về quê dẫn tới đứt gãy thị trường lao động, thiếu hụt lao động nghiêm trọng tại một số tỉnh phía Nam, nhất là những nơi tập trung đông khu công nghiệp, khu chế xuất.
Cho đến nay, một lượng lớn lao động đã về quê nhưng chưa có nhu cầu quay trở lại vì còn e dè với dịch bệnh hoặc là mệt mỏi sau một thời gian dài làm cách, nhiều người chọn phương án lập nghiệp tại quê nhà, nhiều người có tâm lý chờ qua tết mới đi làm.
Trong khi đó, nhiều tỉnh có lao động trở về đang phải đối mặt với áp lực rất lớn về giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội. Điều này đã tạo ra một nghịch lý về lao đông, nơi cần lao động thì không có còn nơi có lao động thì rất khó để tìm việc làm.
“Thứ ba, dịch bệnh đã dẫn đến xuất hiện những nhóm tác động dễ bị tổn thương. Khác với các cuộc khủng hoảng trước đây, với sự gián đoạn của chuỗi cung ứng, sự hạn chế đi lại và khả năng làm việc từ xa đã dẫn tới tình trạng cắt giảm một lượng lớn việc làm. Lao động làm công việc giản đơn trở nên yếu thế trong đại dịch, tỷ lệ mất việc của nhóm này cao gần gấp đôi so với các nhóm khác, lao động có trình độ thấp, lao động là người lớn tuổi, lao động tự do rất khó khăn trong tìm kiếm việc làm, kể cả những công việc có tính chất tạm thời” - bà Thủy cho hay.
Yếu tố thứ tư được bà Thủy lo ngại khi tính bền vững của quan hệ lao động đang có nguy cơ bị xâm phạm. Do mất việc, nhiều lao động ở khu vực chính thức có xu hướng chuyển dịch sang khu vực phi chính thức, dẫn tới số lao động tự do tăng cao nhất trong vòng 3 năm trở lại đây, chiếm tới 57% tổng số lao động có việc làm.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc một lượng lớn lao động đang có việc làm nhưng không ổn định, thiếu tính bền vững, trong khi đó, những chính sách an sinh bảo hiểm, chế độ ốm đau, thai sản ở khu vực này rất hạn chế. Cùng với đó, nhiều quan hệ lao động đã được xây dựng ổn định qua các năm đang có nguy cơ bị phá vỡ, nhiều tiêu chuẩn về lao động đang không được tôn trọng đầy đủ cả từ phía người sử dụng lao động lao động và người lao động.
Thứ năm, qua đại dịch cũng đã bộc lộ những hạn chế trong quản lý thị trường lao động thời công nghệ. Điều đó đã dẫn tới việc nhiều người lao động và người sử dụng tác động thực sự có cung cầu lao động nhưng chưa tìm được nhau.
Nhấn mạnh đất nước đang trở lại trạng thái bình thường mới, để hồi phục và phát triển, bà Thủy cho rằng, một trong những vấn đề quan trọng nhất chính là vấn đề lao động. Vừa qua, Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã có nhiều quyết sách chưa từng có tiền lệ, có ý nghĩa thiết thực hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp.
Để đóng góp cho Nghị quyết, bà Thủy kiến nghị, tăng gói kinh phí hỗ trợ tiền thuê nhà trọ và đề nghị áp dụng cả với lao động chính thức, lao động khu vực phi chính thức. Hiện nay, dự thảo đã dành khoảng 6,6 nghìn tỷ và chỉ dành cho người lao động chính thức là chưa phù hợp.
Mặt khác cần dành khoản kinh phí thỏa đáng để hỗ trợ tiền thuê nhà trọ để hỗ trợ tiền xây dựng nhà ở cho công nhân, đồng thời dành khoản kinh phí phù hợp để hỗ trợ tiền xét nghiệm, đi lại, hỗ trợ tư vấn việc làm khi người lao động quay trở lại làm việc.