Báo Đại Đoàn Kết Giáo dục

Để những nghiên cứu khoa học ứng dụng vào thực tiễn - Bài 4: Tăng nguồn lực cho nghiên cứu khoa học

Báo Đại Đoàn Kết Tăng kích thước chữ

Để những nghiên cứu khoa học ứng dụng vào thực tiễn - Bài 4: Tăng nguồn lực cho nghiên cứu khoa học

Báo Đại Đoàn Kết trên Google News

Khi phần lớn các trường đại học (ĐH) vẫn “sống bằng học phí”, làm sao để tăng nguồn lực cho nghiên cứu khoa học là bài toán đặt ra. Dù điều kiện còn hạn chế, nhiều trường đang chủ động đổi mới, đẩy mạnh hợp tác và tạo cơ chế khuyến khích để nuôi dưỡng tinh thần nghiên cứu trong giảng viên, sinh viên.

Tìm lực đẩy cho nghiên cứu

Nhiều trường ĐH, kể cả những trường có tổng thu hàng nghìn tỷ đồng, vẫn phụ thuộc hơn 90% vào học phí, trong khi thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ thường chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ.

Sinh viên nghiên cứu khoa học trong phòng thí nghiệm. Ảnh: V.T.
Sinh viên nghiên cứu khoa học trong phòng thí nghiệm. Ảnh: V.T.

TS. Lương Xuân Chiểu – Giám đốc Trung tâm Khoa học công nghệ Giao thông vận tải, giảng viên bộ môn Đường bộ - Khoa Công trình, Trường ĐH Giao thông vận tải đánh giá, hiện nay, ngân sách Nhà nước dành cho khoa học công nghệ được phân bổ qua các đề tài, dự án, nhưng nhìn chung vẫn dàn trải và chưa đáp ứng đủ nhu cầu.

Nguồn lực dành cho nghiên cứu khoa học tại các trường ĐH hiện chủ yếu đến từ ngân sách Nhà nước và nguồn thu học phí, trong khi đóng góp từ hoạt động nghiên cứu - chuyển giao còn rất khiêm tốn. Nhiều trường “sống bằng số lượng đề tài” - tức là dựa vào kinh phí các đề tài nhỏ lẻ - chứ chưa thể “sống bằng sản phẩm của đề tài”, chưa có nguồn thu đáng kể từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

Trong bối cảnh chung đó, ĐH Kinh tế quốc dân (NEU) phân bổ nguồn lực dành cho nghiên cứu khoa học theo hướng kết hợp giữa ngân sách Nhà nước, nguồn tự chủ của đại học và các nguồn tài trợ, hợp tác bên ngoài.

TS Vũ Văn Ngọc – Viện trưởng Viện đào tạo tiên tiến, chất lượng cao & POHE (ĐH Kinh tế quốc dân) cho biết, dù ngân sách Nhà nước vẫn là trụ cột chính, nhà trường đã chủ động dành một phần đáng kể nguồn lực của mình để hỗ trợ đề tài cơ sở, khuyến khích nhóm nghiên cứu mạnh, giảng viên trẻ và sinh viên nghiên cứu khoa học. Đồng thời, nhà trường đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế, qua đó huy động thêm nguồn lực xã hội cho nghiên cứu ứng dụng và đổi mới sáng tạo.

Tuy nhiên, so với tiềm năng và nhu cầu phát triển, TS Vũ Văn Ngọc cho rằng, nguồn lực hiện có vẫn chưa thật sự tương xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triển. Trong bối cảnh yêu cầu về nghiên cứu chất lượng cao, công bố quốc tế và gắn với thực tiễn ngày càng lớn, NEU đang tiếp tục đa dạng kênh huy động vốn, tăng cường hợp tác công – tư, và xây dựng quỹ phát triển khoa học và công nghệ nhằm tạo nền tảng bền vững hơn cho hoạt động nghiên cứu trong thời gian tới.

Sinh viên Đại học Phenikaa bên công trình nghiên cứu. Ảnh: NTCC
Sinh viên Đại học Phenikaa bên công trình nghiên cứu. Ảnh: NTCC

Mở rộng mô hình hợp tác 3 nhà

TS Lương Xuân Chiểu cho biết, các mô hình quốc tế thành công đều nhấn mạnh việc đa dạng hóa nguồn lực và tạo cơ chế khuyến khích đối với hoạt động nghiên cứu khoa học. Các trường ĐH hàng đầu thế giới thường huy động kinh phí từ nhiều kênh: ngân sách nhà nước, hợp đồng nghiên cứu với doanh nghiệp, tài trợ từ các quỹ và tổ chức quốc tế, nguồn hiến tặng và quỹ cựu sinh viên... Đi đôi với đó, họ trao quyền tự chủ cao cho trường đại học trong quản lý hoạt động nghiên cứu, khuyến khích sự năng động, sáng tạo của các nhóm nghiên cứu.

Đơn cử như ở nhiều nước Âu - Mỹ, trường ĐH có thể sử dụng linh hoạt kinh phí nghiên cứu, tự chủ tuyển dụng và trả lương cạnh tranh để thu hút chuyên gia giỏi, cũng như thực hiện chính sách thưởng minh bạch cho công bố chất lượng cao hoặc bằng sáng chế được cấp. Những kinh nghiệm quốc tế này là gợi ý quý báu để các trường ĐH Việt Nam tham khảo, vận dụng một cách phù hợp, nhằm gia tăng nguồn lực cho nghiên cứu khoa học, qua đó nâng tầm vị thế và đóng góp của mình vào sự phát triển chung.

Theo TS Vũ Văn Ngọc, khả năng huy động nguồn lực cho nghiên cứu khoa học trong các trường đại học phụ thuộc chủ yếu vào bốn nhóm yếu tố: cơ chế, chính sách của nhà nước; năng lực đội ngũ và hạ tầng nghiên cứu; mức độ gắn kết với doanh nghiệp và xã hội; danh tiếng học thuật của chính trường đại học.

Ghi nhận tại nhiều trường ĐH cho thấy, các trường đang nỗ lực tạo điều kiện để giảng viên và sinh viên tích cực tham gia nghiên cứu khoa học ngay cả khi nguồn lực còn hạn chế. Các cơ sở giáo dục đã triển khai nhiều chính sách nội bộ nhằm khuyến khích hoạt động khoa học công nghệ.

Chẳng hạn như ĐH Quốc gia Hà Nội có chương trình ươm tạo nhà khoa học trẻ, hỗ trợ kinh phí nâng cao năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế; trường này cấp học bổng lên tới 100 triệu đồng/năm cho nghiên cứu sinh và 120 triệu đồng/năm cho tiến sĩ trẻ có tiềm năng. Các giảng viên có thành tích khoa học vượt định mức được giảm giờ giảng dạy tiêu chuẩn, giúp họ có thêm thời gian tập trung cho nghiên cứu.

Song song với việc tạo động lực bên trong, các trường ĐH còn tích cực mở rộng hợp tác nhằm huy động nguồn lực hỗ trợ từ bên ngoài. Mô hình hợp tác 3 nhà gồm: Nhà trường/Nhà khoa học – Doanh nghiệp – Cơ quan quản lý nhà nước trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo được mở rộng.

Tại Trường ĐH Giao thông vận tải, mô hình hợp tác này đã được kế thừa và phát triển thành mô hình 5 bên, bổ sung 2 thành phần: đối tác nước ngoài có năng lực công nghệ cao đảm nhiệm vai trò chuyển giao, tư vấn kỹ thuật và kiểm định công nghệ; cùng đơn vị thụ hưởng là bộ, địa phương, ban quản lý dự án, doanh nghiệp có nhu cầu ứng dụng vào thực tiễn. Mô hình cải tiến này được duy trì hơn 20 năm qua, giúp nhà trường xử lý hiệu quả nhiều bài toán công nghệ phức tạp của ngành, đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế – xã hội.

Sinh viên thực hành trong phòng thí nghiệm. Ảnh: V.T.
Sinh viên thực hành trong phòng thí nghiệm. Ảnh: V.T.

Thu hẹp khoảng cách để bứt phá

Tuy nhiên, không thể phủ nhận tồn tại sự chênh lệch đáng kể về nguồn lực nghiên cứu giữa các trường ĐH công lập lớn và những trường ĐH quy mô nhỏ hơn. Các ĐH trọng điểm quốc gia thường được Nhà nước đầu tư nhiều hơn, sở hữu đội ngũ giáo sư, tiến sĩ đông đảo và hệ thống phòng thí nghiệm hiện đại.

Ngược lại, nhiều trường ĐH địa phương hoặc trường quy mô nhỏ gặp khó khăn về kinh phí, nhân lực chất lượng cao còn thiếu, dẫn đến hạn chế trong nghiên cứu. Song, theo TS Lương Xuân Chiểu cũng có trường hợp ngoại lệ. Một số ĐH tư thục mới dù tuổi đời còn trẻ nhưng nhờ chiến lược đầu tư mạnh tay cho nghiên cứu đã đạt thành tựu nổi bật. Những trường này thậm chí có thứ hạng cao về công bố khoa học, sánh ngang hoặc vượt qua các trường công lập lâu năm trong bảng xếp hạng gần đây. Điều đó cho thấy nếu được đầu tư đúng hướng, ngay cả các trường ngoài công lập hoặc quy mô nhỏ cũng có thể vươn lên về năng lực nghiên cứu.

Theo đại diện các trường ĐH, chính sách của Nhà nước, đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, đóng vai trò định hướng và dẫn dắt rất quan trọng trong việc huy động nguồn lực cho nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo tại các cơ sở giáo dục đại học.

GS.TS Mai Thanh Phong - Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa, ĐH Quốc gia TPHCM khẳng định, Nghị quyết 57 là cơ hội to lớn cho nhà trường và đội ngũ giảng viên.

Trong cuộc chạy đua đưa Nghị quyết 57 vào thực tiễn, nhà trường xác định rõ 3 hướng trọng tâm đã, đang thực hiện và đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới, gồm: Nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực trọng tâm, mang tính chiến lược được Nghị quyết 57 nhắc đến như: Công nghệ bán dẫn, Trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật, Vật liệu mới…; đào tạo nguồn nhân lực; triển khai công tác khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo trong sinh viên (từ năm 2010).

"Nghị quyết 57 là cú hích tạo đà cho nhà trường tiếp nối truyền thống, thành quả đã làm được. Từ đó, đột phá đưa trường lên tầm cao mới", GS Mai Thanh Phong chia sẻ.

(còn nữa)

TS Vũ Văn Ngọc
TS Vũ Văn Ngọc
TS Vũ Văn Ngọc – Viện trưởng Viện đào tạo tiêntiến, chất lượng cao & POHE (ĐH Kinh tế quốc dân): Động lực mới cho tự chủ và sáng tạo

Nghị quyết 57 xác định nghiên cứu khoa học,đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ là trung tâm của mô hình tăng trưởngmới, coi giáo dục ĐH là nguồn cung tri thức và nhân lực cho nền kinh tế tri thức. Đây là cơ sở quan trọng để các trường được trao quyền tự chủ lớn hơn trong huy động và sử dụng nguồn lực nghiên cứu. Nghị quyết cũng định hướng xâydựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó trường ĐH đóng vai trò trụ cột liên kết với doanh nghiệp và Nhà nước. Bên cạnh đó, các chính sách theo tinh thần Nghị quyết, như cơ chế tài chính linh hoạt, quỹ phát triển khoa học – công nghệ hay ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư R&D, đã mở rộng kênh huy động nguồn lực cho ĐH.

Tuy nhiên, để chính sách thực sự phát huy tác dụng, cần tiếp tục cụ thể hóa các cơ chế hỗ trợ, đặc biệt là cơ chế chia sẻ lợi ích, đánh giá hiệu quả đầu tư và khuyến khích hợp tác công – tư. Khi đó,các trường ĐH mới thực sự trở thành trung tâm nghiên cứu, sáng tạo và phát triển tri thức quốc gia, đúng với tinh thần của Nghị quyết 57.

 

Nguyễn Hoài