Đề xuất bổ sung chỉ tiêu đo lường về “tỷ lệ người dân tiếp cận dịch vụ số và hạ tầng số tại nông thôn và vùng dân tộc thiểu số”
Đại biểu Đỗ Văn Yên (Đoàn TP Hồ Chí Minh) mong muốn Nghị quyết khi ban hành sẽ thật sự đi vào cuộc sống, nâng cao thu nhập, chất lượng sống và cơ hội phát triển cho người dân nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tạo nền tảng vững chắc cho phát triển đất nước trong giai đoạn mới”.
Ngày 5/12, Quốc hội thảo luận ở hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) về nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (ĐBDTTS và MN) đến năm 2035.
Đại biểu Đỗ Văn Yên (Đoàn TP Hồ Chí Minh) thống nhất và ủng hộ cao việc Quốc hội xem xét ban hành Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư CTMTQG xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBDTTD và MN giai đoạn 2026-2035. Đây là chủ trương lớn, mang ý nghĩa chiến lược, thể hiện nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước về ưu tiên phát triển khu vực nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, thu hẹp khoảng cách vùng miền và bảo đảm cơ hội phát triển đồng đều cho mọi người dân.
Tuy nhiên, để Nghị quyết khi ban hành vừa bảo đảm tính khả thi, vừa tạo ra động lực phát triển thực chất, ông Yên cho hay, về quy định mục tiêu cụ thể tại Khoản 1 Điều 1, cá nhân ông đồng tình với nhóm mục tiêu hướng tới xây dựng nông thôn mới hiện đại, giảm nghèo đa chiều và nâng cao đời sống người dân. Tuy nhiên, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung chỉ tiêu đo lường về “tỷ lệ người dân tiếp cận dịch vụ số và hạ tầng số tại nông thôn và vùng dân tộc thiểu số” nhằm phù hợp với định hướng chuyển đổi số quốc gia.
Ông Yên bày tỏ, việc bổ sung chỉ tiêu này sẽ bảo đảm mục tiêu phát triển không chỉ tập trung vào hạ tầng vật chất mà còn ưu tiên hạ tầng số - yếu tố quyết định trong nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo việc làm mới và kết nối thị trường cho khu vực nông thôn và miền núi, từ đó tăng tính bền vững của thoát nghèo và tăng thu nhập của người dân.
Đề cập đến kinh phí thực hiện tại Khoản 3 Điều 1, tuy đồng ý với tổng mức bố trí ngân sách nhà nước và cơ cấu phân cấp vốn giữa trung ương và địa phương. Tuy nhiên, ông Yên đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung cơ chế “bảo toàn vốn đầu tư phát triển cho hạ tầng thiết yếu” đối với các địa phương có tỷ lệ hộ nghèo cao và ngân sách còn khó khăn.
Lý do theo ông Yên, nếu không có cơ chế bảo toàn vốn, một số địa phương có thể phải điều tiết sang nhiệm vụ chi cấp bách khác, dẫn đến đầu tư hạ tầng bị gián đoạn, kéo dài thời gian hoàn thành mục tiêu nông thôn mới. Việc bảo toàn vốn đầu tư cho hạ tầng thiết yếu sẽ giúp bảo đảm tính nhất quán trong thực thi và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách.
Trong khi đó, liên quan đến nguyên tắc phân bổ vốn ngân sách trung ương tại Khoản 4 Điều 1, ông Yên đánh giá cao nguyên tắc ưu tiên vùng đặc biệt khó khăn và vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, để phù hợp thực tiễn, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung tiêu chí phân bổ theo “mức độ hoàn thành mục tiêu và hiệu quả giải ngân giai đoạn trước”. Việc gắn phân bổ vốn với hiệu quả thực thi sẽ tạo động lực mạnh mẽ đối với các địa phương trong công tác điều hành, đồng thời giảm tình trạng vốn chậm giải ngân hoặc đầu tư dàn trải, từ đó thúc đẩy tiến độ và nâng cao hiệu quả chương trình.
Đối với cơ chế tổ chức thực hiện Chương trình tại Khoản 5 Điều 1, ông Yên đồng thuận với việc thành lập Ban Chỉ đạo chung nhằm tránh trùng lặp và bảo đảm điều phối tập trung. Tuy nhiên, đề nghị bổ sung cơ chế “cắt giảm thủ tục hành chính đối với các dự án quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản có sự tham gia giám sát của cộng đồng”. Thực tế cho thấy nhiều dự án nhỏ tại nông thôn và vùng dân tộc thiểu số đang gặp khó khăn do quy trình thẩm định phức tạp và kéo dài, làm chậm hiệu quả thụ hưởng của người dân. Cơ chế cải cách thủ tục có kiểm soát sẽ giảm chi phí thời gian, đồng thời nâng cao trách nhiệm giải trình thông qua giám sát cộng đồng.
Riêng về nhiệm vụ giao Chính phủ tại Khoản 1 Điều 2, ông Yên nhất trí với nhiệm vụ rà soát, sửa đổi và ban hành các cơ chế đặc thù. Tuy nhiên, để bảo đảm cam kết đồng hành hỗ trợ địa phương trong dài hạn, vị đại biểu đoàn TP Hồ Chí Minh đề nghị bổ sung quy định “xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung phục vụ theo dõi kết quả thực hiện Chương trình trên phạm vi toàn quốc”, tích hợp chỉ tiêu về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo đa chiều và phát triển vùng dân tộc thiểu số. Cơ sở dữ liệu thống nhất sẽ giúp nâng cao tính minh bạch, hỗ trợ giám sát hiệu quả và phục vụ hoạch định chính sách điều chỉnh kịp thời theo biến động thực tế.
“CTMTQG lần này có phạm vi rộng, thời gian thực hiện dài và gắn với nhóm đối tượng dễ bị tổn thương. Do đó càng phải bảo đảm tính khả thi, đồng bộ và hiệu quả thực thi. Mong muốn Nghị quyết khi ban hành sẽ thật sự đi vào cuộc sống, nâng cao thu nhập, chất lượng sống và cơ hội phát triển cho người dân nông thôn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và tạo nền tảng vững chắc cho phát triển đất nước trong giai đoạn mới”, ông Yên nói.