Đề xuất chính sách đãi ngộ và đào tạo nhân lực y tế chất lượng cao “từ sớm, từ xa”
Ngày 2/12, Quốc hội thảo luận ở hội trường về: Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đột phá cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân; Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035. Vấn đề chế độ chính sách cho nhân viên y tế nhận được sự quan tâm của nhiều đại biểu.
Liên quan chính sách đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực y tế, Đại biểu Trần Khánh Thu (Đoàn Hưng Yên) cho hay, về cơ sở chính trị tại khoản 3 mục I quan điểm chỉ đạo Nghị quyết 72 đã nêu: Quan tâm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế chất lượng, cân đối. Có chính sách ưu đãi, đãi ngộ đặc biệt trong suốt quá trình từ đào tạo, tuyển dụng, sử dụng.
Bên cạnh đó, cũng Tại Khoản 3 phần nhiệm vụ giải pháp cũng đã nêu: Thực hiện chính sách ưu đãi tương xứng với quan điểm nghề y là nghề đặc biệt, phải được đào tạo, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt.
Bà Thu cũng nhắc tới ở nội dung thứ 4 trong 12 nhóm nội dung được Tổng Bí thư Tô Lâm đề cập đến trong bài phát biểu khi làm việc và giao nhiệm vụ cho Bộ Y tế nhân kỷ niệm 70 năm ngày Thầy thuốc Việt Nam. Đó là: Cải thiện chính sách đãi ngộ và đào tạo nhân lực y tế chất lượng cao; hỗ trợ tài chính cho sinh viên y khoa cam kết làm việc tại y tế cơ sở sau khi tốt nghiệp.
Tuy nhiên bà Thu đánh giá, trong Dự thảo Nghị quyết mới nêu đến chính sách đào tạo sau đại học ở một số chuyên ngành chứ chưa thấy có giải pháp đột phá liên quan đến tạo nguồn nhân lực từ sớm từ xa. Trong khi đó, nguồn nhân lực đặc biệt là nhân lực y tế luôn có vai trò quan trọng, quyết định đến việc thành công hay thất bại trong công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng; Nhân lực Y tế tuyến cơ sở hiện nay chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, chưa thể là nơi hấp dẫn và đảm bảo điều kiện phát triển chuyên môn của mỗi bác sỹ.
Công tác đào tạo nhân lực y tế hiện nay, theo báo cáo của Bộ Y tế, cả nước có 214 cơ sở đào tạo nhân lực y tế, gồm 66 trường đại học ( Có 18 Trường công lập đào tạo bác sỹ y khoa); Số bác sĩ tốt nghiệp năm 2024 trong toàn quốc là gần 11.300, mặc dù Quy mô nhân lực y tế của Việt Nam tăng 2,33% trong 10 năm qua. Nhưng số này không đáng kể, theo đánh giá của Bộ Y tế; Tổng số nhân lực ngành y tế hiện khoảng 431.700 người, thấp hơn nhiều so với mức 632.500 người trong Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực y tế, giai đoạn 2011-2020.
Thực tế thi vào ngành bác sỹ y khoa tại các trường công lập đào tạo khối trường sức khỏe điểm chuẩn luôn ở mức cao nhất trong 10 năm qua; thời gian học lại dài, mức học phí cao do các trường công lập hoạt động tự chủ tài chính nguồn thu chủ yếu từ học phí; Học phí các trường đều đang rất cao; vượt khả năng của các gia đình có thu nhập trung bình thấp điều này đã trở thành rào cản đối với nhiều sinh viên muốn theo đuổi ngành y.
Đề cập đến việc khi tham gia góp ý cho Dự thảo Luật Giáo dục đại học sửa đổi, cá nhân bà đã đề nghị chỉnh sửa Điểm a Khoản 2 Điều 38 Ngân sách nhà nước: Bảo đảm kinh phí đào tạo giáo viên, bác sỹ y khoa, nhân lực nghệ thuật, thể thao và các ngành thuộc lĩnh vực ưu tiên, đặc thù theo quy định của Chính phủ. Nhưng tại báo cáo 2028 của Bộ Giáo dục và đào tạo có nêu ở Trang 47 (Mục 12): Học phí, hỗ trợ, chế độ đãi ngộ cho đào tạo bác sỹ, bác sĩ nội trú thuộc phạm vi quy định chuyên ngành của Bộ Y tế, được thực hiện theo các văn bản hướng dẫn và cơ chế tài chính, chính sách của ngành y tế. Dự thảo Luật Giáo dục đại học không quy định chi tiết các nội dung này.
Từ phân tích trên bà Thu kiến nghị bổ sung đối tượng đào tạo bác sỹ y khoa của các cơ sở đào tạo công lập vào nhóm đối tượng được ngân sách nhà nước bảo đảm, hỗ trợ học phí trong thời gian đào tạo với cam kết sau khi ra trường sẽ làm việc theo sự phân công của Nhà nước. Như vậy vừa đảm bảo nguồn sinh viên, đặc biệt là sinh viên có hoàn cảnh khó khăn có cơ hội đạt được nguyện vọng trở thành bác sỹ, đồng thời giải quyết được vấn đề nguồn nhân lực y tế tại các vùng sâu, vùng xa, vùng thiếu bác sỹ.
Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng (Đoàn TP Hồ Chí Minh) cũng cho rằng, về chế độ tiền lương và phụ cấp đối với nhân viên y tế tại Điều 3 cá nhân ông rất hoan nghênh quy định xếp lương bác sĩ từ bậc 2 và phụ cấp ưu đãi nghề 100% đối với các lĩnh vực đặc thù. Tuy nhiên, ông Hùng đề nghị, Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung phụ cấp trách nhiệm nghề nghiệp theo từng vị trí công tác chứ không chỉ theo chuyên ngành. Lý do là tại tuyến y tế cơ sở và tại các đơn vị hồi sức, chống độc, áp lực công việc, cường độ trực và rủi ro nghề nghiệp rất cao, nhưng nếu không quy định phụ cấp trách nhiệm thì khó đảm bảo giữ chân và tạo động lực nghề nghiệp bền vững. Đây là yếu tố quyết định cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực y tế - thách thức lớn nhất hiện nay.
Trong khi đó, Đại biểu Đặng Bích Ngọc (Đoàn Phú Thọ) đề cập đến chế độ, chính sách về tiền lương và phụ cấp cho nhân viên y tế (Điều 3).
Bà Ngọc đề nghị Dự thảo Nghị quyết nghiên cứu có chính sách đột phá, đặc thù để thực hiện đào tạo, bồi dưỡng, thu hút bác sỹ về công tác tại vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Thực tế thời gian qua cho thấy, nhiều trạm y tế xã ở các vùng đặc biệt khó khăn không có bác sỹ cơ hữu hoặc chỉ có một bác sỹ phải kiêm nhiệm nhiều công việc. Do cơ chế, chính sách hiện nay chưa đủ mạnh để thu hút, giữ chân bác sỹ có trình độ chuyên môn về làm việc và gắn bó lâu dài tại tuyến y tế cơ sở, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Bên cạnh đó, các y bác sỹ ở tuyến cơ sở hạn chế về chuyên môn và thiếu kinh nghiệm thực tế; cán bộ y tế hiện nay còn tình trạng không biết vận hành hoặc không sử dụng thành thạo các thiết bị như máy siêu âm, điện tim gây lãng phí và không phát huy được tác dụng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân.
Để thực hiện đột phá trong thời gian tới theo bà Ngọc cần có các chính sách thu hút nhân lực đặc thù theo vùng miền; có cơ chế đào tạo, bồi dưỡng, trong đó chú trọng phát triển đội ngũ nhân lực tại chỗ là người dân tộc thiểu số, hoặc triển khai các chương trình đào tạo đặc thù theo hình thức “cầm tay chỉ việc” cho cán bộ y tế vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn. Đồng thời, thực hiện luân phiên cán bộ tuyến trên hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến xã; đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số để tư vấn, khám chữa bệnh từ xa.