So với các anh, các chị đã từng công tác Dân vận - Mặt trận trước tôi cũng như sau tôi, tôi có may mắn và hạnh phúc hơn là đã liên tục được giúp việc cả 5 vị Chủ tịch Đoàn Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam đã quá cố, trong đó thời gian giúp việc và làm thư ký cho Chủ tịch Hoàng Quốc Việt là lâu nhất. Lần đầu tiên tôi được gặp và trực tiếp làm phiên dịch giúp đồng chí Hoàng Quốc Việt là vào những ngày đầu tháng 9/1960, khi Đảng ta tiến hành Đại hội III
Đồng chí Hoàng Quốc Việt tên thật là Hạ Bá Cang, sinh ngày 28/5/1905. Là con út của một gia đình nhà nho nghèo, đông con, mẹ mất sớm, cha già yếu, nhờ sự nuôi dưỡng, chăm sóc của các anh chị, đồng chí mới có điều kiện để học hết cao đẳng tiểu học rồi thi đỗ vào Trường Bách nghệ Hải Phòng. Sống giữa thành phố Cảng, được tiếp xúc với thực tại xã hội đương thời, Hạ Bá Cang sớm hiểu được nỗi cay đắng của một dân tộc bị nô lệ và mang nặng mối căm thù bọn thực dân bán nước. Tiếng bom Phạm Hồng Thái ở Quảng Châu càng thôi thúc anh và bạn bè cùng chí hướng lao vào các phong trào yêu nước như đòi thả Phan Bội Châu, đòi để tang Phan Châu Trinh, v.v…
Năm 1925, bị đuổi khỏi trường vì đã tham gia đoàn biểu tình chặn đường tên toàn quyền Varen từ Đồ Sơn về Hải Phòng đưa yêu sách đòi thả Phan Bội Châu, đồng chí trở về quê. Chính tại đây, đồng chí làm quen với Ngô Gia Tự, người thanh niên trường Bưởi cũng đã bị đuổi học vì cùng học sinh Hà Nội đấu tranh chống xử án cụ Phan Bội Châu.
Trong những năm 1925-1927, Hạ Bá Cang vào làm thợ mỏ ở Phấn Mễ (Thái Nguyên), Mạo Khê (Quảng Ninh) rồi trở về Hải Phòng làm thợ nguội tại nhà máy cơ khí Carông với hy vọng ở nơi đông đúc thợ thuyền và đã từng nổ ra những cuộc đấu tranh gay gắt, ắt tìm được đoàn thể cách mạng. Quả nhiên, đồng chí đã gặp lại Lương Khánh Thiện, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu - những người đã giúp đỡ và kếp nạp mình vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đầu năm 1929, do hoạt động trong phong trào cách mạng, đồng chí bị đuổi khỏi nhà máy và bước vào cuộc đời của một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Trong hồi ký “Chặng đường nóng bỏng” đồng chí đã tâm sự: “Tôi được sống những ngày tuyệt đẹp của tuổi thanh xuân, đã tìm thấy lý tưởng, được tôi luyện trong những cuộc đấu tranh giai cấp sôi động, được chứng kiến và tham gia chuyển những chi bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội thành những chi bộ Cộng sản đầu tiên, được góp phần mình chuẩn bị cho Đông Dương Cộng sản Đảng ra đời”.
Năm 1929, được Đảng cử vào Nam để cùng Ngô Gia Tự, Lê Văn Lương tuyên truyền mở rộng ảnh hưởng của Đảng, đồng chí đã lăn lộn và gắn bó với thợ thuyền và bà con lao động nghèo ở xóm Chiếu, Khánh Hội, Thủ Thiêm. Cuối năm, đồng chí được cử sang Pháp để liên hệ với Đảng Cộng sản Pháp xin tài liệu và đề nghị bạn giúp đỡ Đảng ta có thêm điều kiện hoạt động. Chuyến đi đầy gian khổ nhưng trót lọt đó không chỉ đặt đường dây liên lạc bí mật giữa Đảng ta với Đảng bạn, mà còn là dịp giúp đồng chí mở rộng tầm nhìn và thấm thía thế nào là tình cảm quốc tế vô sản.
Về đến Sài Gòn, hay tin Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập trên cơ sở hợp nhất các Đảng Cộng sản hiện có ở các xứ, đồng chí lại được cử thay mặt bộ phận Đông Dương Cộng sản ở Nam Kỳ ra dự hội nghị thực hiện việc hợp nhất. Nhưng đến Hải Phòng, mới kịp gặp đồng chí Trần Phú để nghe thông báo nội dung và chương trình nghị sự thì đồng chí đã bị bắt cùng nhiều đồng chí khác. Do biến cố này nên mãi đến tháng 10/1930, hội nghị hợp nhất mới họp được. Đồng chí được Hội nghị nhất trí cử vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, mặc dầu đang còn ở trong tù.
Đầu năm 1931, tòa án đề hình Kiến An kết án đồng chí tù chung thân biệt xứ, đưa lên giam ở Hỏa Lò, Hà Nội, rồi đày ra Côn Đảo cùng các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ…
Mùa thu năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận Nhân dân Pháp, đồng chí được trả về đất liền. Và từ đó đến năm 1945, suốt 10 năm trời, như đồng chí Trường Chinh đã nhận xét: với đôi chân khập khiễng, kết quả của những trận đòn thù của mật thám Pháp ở Hải Phòng năm 1930, khi “khăn đóng, áo dài”, khi complê cravat”, anh đã dọc ngang khắp nước, để móc mối, gây dựng, củng cố và phát triển cơ sở Đảng, phát triển phong trào, bất chấp sự rình rập, chăng bẫy ngày đêm của kẻ thù.
Ra đến Bắc, đồng chí được phân công cùng đồng chí Trường Chinh phụ trách tờ báo của Đảng ở Bắc Kỳ.
Năm 1937, đồng chí được cử làm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ.
Tháng 3/1938, đồng chí được cử đi dự Hội nghị Trung ương tại Hóc Môn, Bà Điểm bàn về công tác Mặt trận của Đảng trong tình hình mới của cách mạng nhằm tập hợp lực lượng quần chúng đông đảo chống bọn phản động thuộc địa, chống chiến tranh phát- xít.
Vừa về đến Hà Nội, đồng chí cùng nhiều đồng chí khác bị thực dân Pháp trục xuất ra khỏi Hà Nội. Nhân cơ hội này Trung ương phân công đồng chí về nông thôn gây dựng cơ sở chuẩn bị cho giai đoạn đấu tranh mới.
Trong những năm 1941-1945, với cương vị Ủy viên Thường vụ TƯ Đảng kiêm Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, vẫn đôi chân khập khiễng, khi lên rừng núi, lúc xuống đồng bằng, lúc vào Nam, khi ra Bắc, rồi lặn lội lên tận Pắc Bó (Cao Bằng) dự Hội nghị TƯ VIII của Đảng vào tháng 5-1941 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập để phát triển và hoàn chỉnh đường lối của Đảng về vấn đề giải phóng dân tộc, thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (tức Mặt trận Việt Minh). Hội nghị đã cử ra BCH TƯ mới do đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư, các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hạ Bá Cang được bầu vào Thường vụ TƯ.
Cách mạng càng phát triển, đồng chí càng đi sâu vào công tác Dân vận - Mặt trận của Đảng, chuyên lo công tác vận động quần chúng. Giữa năm 1945, đồng chí cùng các vị đại diện Mặt trận Việt Minh tiến hành chuyến công tác ngoại giao đầu tiên, vượt biên giới sang Trung Quốc nhằm thăm dò ý đồ của Tưởng Giới Thạch lăm le muốn lấy danh nghĩa “Đồng minh” đưa “Hoa quân nhập Việt”. Đồng chí mang tên Hoàng Quốc Việt từ chuyến đi ấy.
Cũng năm 1945 lịch sử đó, đồng chí được Thường vụ TƯ Đảng, Quốc dân Đại hội Tân Trào, Mặt trận Việt Minh và Bác Hồ cử đi kiểm tra tình hình chuẩn bị khởi nghĩa ở các tỉnh từ Bắc vào Nam và giúp Xứ ủy Nam Kỳ củng cố chính quyền cách mạng, mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Chính đồng chí đã viết những dòng sau đây điện ra cho TƯ và Bác Hồ: “Hai mươi mốt tỉnh tôi đi qua đều đã giành được chính quyền, khắp lục tỉnh Nam Bộ cũng đã xong”.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, đồng chí Hoàng Quốc Việt đươc Đảng, Chính phủ và Bác Hồ giao nhiều trọng trách. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành TƯ và Bộ Chính trị.
Với 26 năm liên tục ở cương vị Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam và hơn chục năm là Phó Chủ tịch Liên hiệp Công đoàn Thế giới, đồng chí đã góp phần quyết định vào việc xây dựng cơ chế làm chủ của công nhân viên chức Nhà nước từ TƯ đến cơ sở.
Vừa là Chủ tịch Tổng Công đoàn, vừa là Trưởng ban Mặt trận, Trưởng ban Dân vận - Mặt trận của Đảng, rồi Chủ tịch và sau đó là Chủ tịch Danh dự của Mặt trận, đồng chí đã có những cống hiến to lớn vào việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc. Với thái độ chân thành, khiêm tốn, quan tâm và chăm lo cho mọi người, lắng nghe ý kiến của mọi người, nhất là những vị tiêu biểu trong các dân tộc, các tôn giáo, trong trí thức và các tầng lớp xã hội, đồng chí đã được mọi người tin yêu, kính trọng.
Đối với hoạt động nhà nước, đồng chí Hoàng Quốc Việt được ủy nhiệm đứng ra tổ chức hệ thống Viện Kiểm sát Nhân dân và là Viện trưởng đầu tiên trong suốt 16 năm của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Đồng chí đã góp phần quyết định trong việc xác lập vị trí của tổ chức rất mới này trong thể chế Nhà nước từ TƯ đến địa phương.
Công lao của đồng chí Hoàng Quốc Việt đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ghi nhận và đánh giá cao. Đồng chí là người thứ tư được tặng Huân chương Sao vàng khi còn đương chức (sau Bác Hồ, Bác Tôn và đồng chí Võ Nguyên Giáp). Hiện nay nhiều trường học, đường phố, công viên trong cả nước được vinh dự mang tên Hoàng Quốc Việt.