Dược sĩ Hồ Thu sinh ngày 15-2-1910 tại Phan Rang, Ninh Thuận trong một gia đình giàu có. Tốt nghiệp ngành Dược trường đại học Y khoa Hà Nội, ông về mở nhà thuốc tại thị xã Bến Tre. Là trí thức có tinh thần dân tộc, ông nhạy cảm trước thời cuộc, trước những bất công xã hội, trước sự phân biệt đối xử giữa người Pháp thực dân và người “annammít” bản xứ hồi đó. Tinh thần phản kháng sớm trỗi dậy trong ông.
Ngày 20/12/1960, Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập và dược sĩ Hồ Thu trở thành Phó Tổng thư ký.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, dược sĩ Hồ Thu dẹp tiệm, đưa cả gia đình lên Sài Gòn. Chỉ được mấy ngày, thực dân Pháp nổ súng, xâm lược nước ta một lần nữa. Trước hành động ngang ngược của kẻ thù, ngày 23-9-1945, Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ kêu gọi đồng bào kháng chiến. Hưởng ứng Lời kêu gọi, ngay ngày hôm đó, toàn thành phố đình công, không hợp tác với địch, chợ ngừng họp, xe ngừng chạy; các nhà máy, hiệu buôn đóng cửa; bàn ghế, giường, tủ được khuân ra đường làm chướng ngại vật và dựng ụ chiến đấu. Trong không khí sôi sục căm thù, các chiến sĩ tự vệ công nhân, tự vệ thanh niên, các đội xung kích – công đoàn, cảnh sát chiến đấu, công an xung phong cùng toàn thể đồng bào với mọi vũ khí sẵn có trong tay, dũng cảm đánh trả bọn xâm lược.
Cùng với công nhân, nông dân, thương gia, Hồ Thu cùng nhiều trí thức lớn nổi tiếng trong xã hội thời đó – những người từng được du học ở Pháp, Đức, Anh đã về Sài Gòn tham gia đấu tranh tại chỗ hoặc ra chiến khu như nhà toán học Lê Văn Thiêm, thạc sĩ Văn chương Hoàng Xuân Nhị, tiến sĩ luật Trần Văn Khương, v.v… Trước mũi súng quân thù, các trí thức tiêu biểu như Lưu Văn Lang, Trịnh Đình Thảo, Michel Văn Vĩ, Hoàng Quốc Tân, Nguyễn Hữu Bái đã bày tỏ rõ ràng thái độ ủng hộ chính phủ kháng chiến.
Hơn 6 nghìn viên chức và công nhân lành nghề tạm bỏ Sài Gòn – Chợ Lớn ra bưng biền, trong đó có những nhân vật nổi tiếng như Đốc phủ sứ Đô trưởng Phan Văn Chương, Đốc phủ Viễn, Đốc phủ Xuân, Đốc phủ Tảo, v.v…
Dược sĩ Hồ Thu được phân công hoạt động bí mật trong nội thành. Là người có uy tín trong giới trí thức, lại có tài vận động, thuyết phục, ông đã tranh thủ mời được dược sĩ Phạm Hữu Hạnh – một nhân sĩ trí thức tiến bộ, chủ tiệm thuốc Tây lớn nhất ở đường Tổng đốc Phương thuộc Chợ Lớn - ra làm Chủ tịch Mặt trận Liên Việt (1946–1949). Nhờ đó, thanh thế của Mặt trận tăng nhanh, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân, nhất là tầng lớp trên, những công chức trung, cao cấp trong chính quyền của địch tham gia. Ông cùng bạn bè đã thường xuyên tổ chức những đợt quyên góp bí mật về tiền bạc, thuốc men, dụng cụ y tế chuyển lên chiến khu để xây dựng ngành Y Dược trong kháng chiến ở Nam Bộ. Cùng với việc huy động nhân, tài, vât lực cho kháng chiến, ông còn có tài vận động các nhà sản xuất dược đẩy mạnh sản xuất tây dược, qua đó vận động họ tích cực tham gia phong trào “bảo vệ hàng nội hóa”. Ông kiên trì vận động, thuyết phục được nhiều trí thức có tên tuổi tham gia phong trào ký kiến nghị đòi chính quyền Sài Gòn thương lượng với Chính phủ kháng chiến, với Chính phủ Hồ Chí Minh để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình. Kiến nghị năm 1949 mà ông là một thành viên tổ chức đã gây tiếng vang rất lớn ở trong nước cũng như trên thế giới, tăng thêm uy tín và vị thế cho chính phủ cách mạng.
Qua tham gia phong trào, đến năm 1950 nhiều dược sĩ có tên tuổi như Trần Kim Quan, Nguyễn Chí Nhiều đã trở thành những trí thức cốt cán trong phong trào đấu tranh bán công khai rất sôi nổi như phong trào để tang trò Ơn ngày 9/1/1950, phong trào chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ ngày 19/3/1950 ở Sài Gòn.
Bị địch truy lùng gắt gao, tổ chức điều dược sĩ Hồ Thu ra chiến khu miền Đông làm Trưởng ban Quân dược quân khu 7. Trong điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ và thiếu thốn mọi thứ, ông đã ngày đêm tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm và cuối cùng đã sản xuất thành công các loại thuốc chống sốt rét, chống viêm gan, viêm đường ruột, v.v… và là một trong những người đầu tiên ở miền Nam kết hợp Đông Tây y, nghiên cứu các loại lá cây rừng, tìm được dược liệu có sẵn ở các địa phương để chữa bệnh cho chiến sĩ, cán bộ và đồng bào ở miền Đông Nam Bộ.
Ngày 7/5/1954, trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã toàn thắng, kết thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến trường kỳ của quân dân ta, chấm dứt chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn can thiệp Mỹ, buộc chúng ngày 20/7/1954 phải cùng ta ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ và bản Tuyên bố chung về lập lại hòa bình ở Việt Nam. Hai bên Pháp, Việt cam kết và được các nước tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ chấp nhận, tập trung vào hai điểm chính.
1. Các nước dự Hội nghị công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, quy định sẽ Tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7-1956 để thống nhất đất nước.
2. Trong khi chờ đợi tiến hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, hai bên ngừng bắn, chuyển quân tập kết và hai miền Nam và Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến tạm thời.
Thế nhưng, khi Hiệp định Giơ-ne-vơ vừa được ký kết, máu đã đổ ngay tại trung tâm thành phố Sài Gòn, Mỹ Diệm nổ súng đàn áp cuộc biểu tình mừng hòa bình của một vạn nhân dân thành phố. Và máu chảy khắp miền Nam, v.v…
Ở miền Nam, không mơ hồ trong cuộc đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, theo chủ trương của Đảng, ngành Y tế phải tìm mọi cách bám dân, cài cán bộ ở lại để tạo cơ sở hoạt động lâu dài. Lực lượng cán bộ y tế bố trí ở lại khá đông. Số cán bộ được đào tạo dưới thời Pháp thuộc được chọn làm nòng cốt. Dược sĩ Hồ Thu được bố trí ở lại và trở về bám trụ tại Sài Gòn, tạo thế công khai hợp pháp bằng cách mở tiệm thuốc Tây ở Chợ Lớn. Và tiếp tục làm công tác trí thức vận động thông qua các phong trào, các cuộc vận động, đặc biệt là phong trào đòi hòa bình, đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi Tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Năm 1956, địch bắt đầu đánh phá mạnh các cơ sở nội thành. Chúng dùng những thủ đoạn tàn khốc, những vụ thảm sát kinh hoàng để kìm hãm ý chí dân tộc, xóa nhòa thành quả của 9 năm kháng chiến. Địch bắt giam vợ con và anh ruột của dược sĩ Hồ Thu nhằm khủng bố tinh thần, nhưng người trí thức cách mạng đó quyết không lùi bước. Ông sống lưu động trong các gia đình cơ sở cách mạng để tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ được cách mạng giao. Gia đình kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện đã che giấu Hồ Thu suốt mấy tháng lúc kẻ thù lùng sục ông gắt gao nhất, cho đến ngày bắt được liên lạc với tổ chức và đón ra chiến khu tham dự Đại hội thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và được cử làm Phó Tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Với cương vị mới, trách nhiệm mới, dược sĩ Hồ Thu vừa tiếp tục công tác trí thức vận, vừa đi sâu vào chuyên môn nghiên cứu Nam dược để chữa cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, mở lớp đào tạo dược sĩ, dược tá trang bị những kiến thức Đông Tây y kết hợp, biên soạn và phát hành cuốn “Sổ tay bỏ túi” để các cơ sở y tế có thể tận dụng tối đa các dược liệu sẵn có tại địa phương để chữa trị cho thương, bệnh binh và nhân dân.
Năm 1974, dược sĩ được cử tham gia Đoàn y tế do Bộ trưởng Bộ Y tế xã hội và thương binh Dương Quỳnh Hoa của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam làm trưởng đoàn đi thăm các nước nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.
Ra đến Hà Nội, gặp mùa Đông giá lạnh, dược sĩ bị tai biến mạch máu não, đành phải ở lại để chữa trị. Được các giáo sư đầu ngành tim – mạch, đồng thời là những người bạn cùng học thời Pháp thuộc tại Hà Nội tận tình cứu chữa, được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hết lòng chăm sóc, dược sĩ đã qua khỏi, song để lại di chứng liệt nửa người.
Năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, dược sĩ Hồ Thu xin chuyển về Sài Gòn, trong tình trạng sức khỏe chưa hồi phục hẳn. Với nghị lực phi thường, dược sĩ vừa luyện tập, vừa tự điều trị nên bệnh tình tiến triển tốt. Để ông có điều kiện tiếp tục nghiên cứu Đông Tây y không phải để tự cứu mình mà như ông đã từng nói với Chủ tịch Đoàn Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Hoàng Quốc Việt: “Trong điều kiện bệnh tật dầy vò, tôi tiếp tục nghiên cứu Đông Tây y kết hợp không phải chỉ vì cuộc sống bản thân mình, mà vì sự sống của cả một dân tộc đang khát khao “Độc lập, Tự do, Hạnh phúc”.
Dược sĩ Hồ Thu mất ngày 25/5/1992, thọ 82 tuổi. Gần nửa thế kỷ hy sinh, cống hiến cho cách mạng giải phóng dân tộc và cho ngành Y tế, ông là niềm tự hào, là tấm gương sáng cho giới trí thức Việt Nam yêu nước.